Ai cũng nói hễ chết không còn vương vấn. Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi. Không mất không hết. Không tử không sinh…
Tôi là một ngạ quỷ.
Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty, hầu hạ dưới quyền Ty chủ cõi Luân hồi.
Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cõi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối, đời đời kiếp kiếp.
Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua (sông Lú), một việc nhàn hạ, bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, thì không có gì xảy ra, sẽ chẳng có gì xảy ra.
Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nhìn những hồn phách cô đơn, lẻ loi bay qua.
Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm.
Một ngày, Ty chủ cõi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đã trung thành canh giữ, bởi tôi đã đi tuần cầu Nại Hà suốt 300 năm, chưa hề xảy ra sai sót. Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội lên chốn nhân gian.
Cõi người thật sự rất tươi đẹp, thứ gì cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng. Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cõi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người.
Thời gian lâu dần, tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hãi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện, có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc.
Tôi chỉ có thể cười đau khổ, bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hãi số mệnh, rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi.
Thời gian trôi thật nhanh, một trăm năm lại đã trôi qua. Ty chủ cõi Luân hồi nói với tôi, ngươi đã có 400 năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ 500 năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cõi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục, rồi đi làm một thần tiên.
Khi đó tôi rất vui mừng, vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười. Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi, nói tôi cười còn xấu hơn quỷ.
Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây, mà Bạch Vô Thường cười còn xấu hơn tôi, loài người mà nhìn thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc.
Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho. Nhưng sao tôi thấy 100 năm sao dài hơn cả 400 năm trước đây? Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh, để một ngày, tôi sẽ được đầu thai…
Một ngày, tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh. Tôi bước tới xem, thì ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó. Tôi hỏi vì sao cô đến đây, cô ta bảo, cô ta vô ý đã làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi.
Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ, nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi. Quỷ nữ gạt nước mắt, cười với tôi, nói: “Cảm ơn anh!”.
Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn…
Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra…
Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ ký lục của quỷ nữ, nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi.
Cô ta khóc than, tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách gì cho cô ta đi đầu thai không? Ty chủ nổi trận lôi đình, mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hãi không dám khóc nữa.
Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Uổng Tử, trên đường đi tôi không nói một lời.
Đến thành Uổng Tử, tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu, đi vào trong. Tôi nhìn theo cô ta đi khuất, lúc đó, cô ngoái lại, lại nói một câu: “Cảm ơn anh”. Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ còn lại tôi thẫn thờ đứng đấy.
Ngày lại qua ngày, tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta.
Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử, lén nhìn cô.
Tôi phát hiện cô ta thường vội vã chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nhìn ra suốt một ngày, cuối cùng khóc lóc đi về. Tôi không hiểu vì sao, mỗi lần nhìn thấy cô ta khóc, tôi cũng rất muốn khóc…
Mùa xuân đã lặng lẽ tàn, những bông liễu tan tác đã biến thành đầy trời tuyết bay. Khi chim nhạn trở về, chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đã in vào sâu trong trái tim.
Vô tình, có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quýt mãi trong lòng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư. Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy, tôi đã tìm thấy mộ của cô ta.
Một doi hoàng thổ, trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn, một đứa trẻ con.
Tôi thẫn thờ đứng nhìn hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đã đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu, đến tận nửa đêm.
Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, lòng tôi có dư vị không biết nên gọi là gì.
Một lần, tôi vô tình hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan thì làm thế nào đầu thai được? Anh ta nói, cần có nhân quả. Tôi hỏi, nhân quả là gì?
Anh bảo, nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai thì người chết oan có thể trở lại cõi người. Anh còn nói, cơ hội đầu thai thì có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường.
Ngày nối ngày trôi mãi mãi, Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đã qua. Ngài hỏi tôi chọn gì. Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai.
Ty chủ trợn mắt nhìn tôi – sứ giả câu hồn, Bạch Vô Thường đại ca còn kinh hãi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất.
Ty chủ phán, nếu tôi từ bỏ 500 năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà.
Tôi đáp: “Con xin vâng!” Nói xong, tôi lặng lẽ đi ra, lúc này lòng tôi yên tĩnh, dường như chưa có gì xảy ra…
Ngày cô ấy ra đi, tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mãnh Bà lãng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài).
Xa quá, tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa, tôi không kìm được bước từ chỗ nấp ra, ngóng tới phương đó. Mãnh Bà giật mình ngạc nhiên nhìn tôi, bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lãng quên…
Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà, tôi đi ngóng.
Tôi tin tưởng, rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến, cô ấy sẽ quay trở lại qua đây…
Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ.
Ngày lại nối ngày lại một ngày qua.
Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày.
Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đã trôi bao ngày.
Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, nói, tôi đã canh gác đủ 500 năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này.
Ty chủ vừa dứt lời, tôi đã bàng hoàng, lại đã 500 năm rồi ư, suốt 500 năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cõi Chết nơi âm ty này, nhưng vì sao tôi không thấy cô ấy quay về đây…
Ty chủ nhìn thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ, chỉ thở dài. Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà. Ở cây cầu cõi Chết này, tôi đã ngồi một nghìn năm nay.
Ở bên cây cầu này, tôi đã chờ đợi suốt 500 năm nay. Năm trăm năm một cuộc bể dâu, ngay cả đá cũng lên xanh rêu. Nhưng tôi thì không thấy cô ấy quay lại…
Sau này, Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đã đầu thai thành ai, là nam hay là nữ.
Phút chốc tôi thấy mình rất ngu ngốc, quá ngốc. Nhưng vì sao lại có sự xếp đặt đó. Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ…
Trong sâu thẳm đêm tối, một con quỷ khóc than.
Giờ đây tôi không biết mình còn chờ đợi gì nữa, quá khứ đã trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết tìm nơi đâu.
Những nỗi niềm trong mộng, mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ. Khi tỉnh mộng chợt chỉ còn sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông, khó lòng nói được.
Nhưng những lời thì thầm còn lấp ló đâu trong trí óc thì như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí. Không biết mộng thấy gì, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ. Tôi biết, nếu không đau lòng, sẽ không phải rơi nước mắt.
Lướt phím tơ khẽ ngâm, hát gì khúc bi ai, trong cõi hồng trần đã quá nhiều chuyện bi thương.
Buồn tay giở bút mực, khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết?
Và tôi như bông hoa dại trong gió sương, tôi biết vì ai mà nở.
Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu, tôi biết xanh vì ai?
Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi… Tôi sợ phải nhìn thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên…
Ty chủ thấy tôi thì than, loại quỷ còn giằng giữ nghiệp chướng cõi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên.
Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại.
Lại ngồi đầu cầu bên này, tôi nhìn những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng, phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ vãng.
Nhìn chúng nhớn nhác, tôi thầm mừng vui bởi tôi còn tri giác, còn cảm nhận, tôi dần dần hiểu, cõi nhân gian đã mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết tìm nơi đâu? Địa ngục này ư?
Tôi nghĩ không phải, bởi trong tim tôi, cũng vẫn còn quá nhiều chất ngất những câu hỏi.
Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng, không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ.
Buồn tay lướt dây đàn, vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn não nề, đỗ quyên rỉ máu, người mong về cội. Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương, phổ chi lời thơ mang buồn…
Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ, để một đời sầu nhớ! Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn lên nỗi lòng, để cho nửa khúc vụng lời, cả điệu bi ai.
Chìm nổi ngàn kiếp, trong nỗi nhớ chỉ còn ngàn điều hụt hẫng. Ngoái lại ngày cũ, người với việc thiếu gì thị phi phải trái. Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu.
Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đã không còn gì để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kìm lòng được ngóng sang, nhìn xem trên cầu liệu có xuất hiện hình bóng tôi nhớ nhung.
Cứ mỗi lần như thế, tôi đều tự mắng mình thậm ngốc, tự mắng thầm mình vài câu, nhưng, chỉ cần đi tới đấy, tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy. Thậm chí tôi còn ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nhìn xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng.
Trong những ngày sau này, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nhìn cô ấy lần cuối; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi…
Thế gian hạnh phúc bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ sắc màu thế giới; Thế gian bi ai bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới.
Ma thuật của thời gian đã chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra, phủ bụi lên… còn lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với, cho tôi ghép lại… Để quên. Để không thể quên. Để quên mà không thể. Tất cả.
Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tan tác trong gió thu, hãy để những gì tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca tình yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng.
Hỡi những cánh hoa không chịu lìa xa, sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ. Hỡi thiên nhiên, người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, vì sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc…
Li biệt vẫn luôn vội vã thế, vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ. Người qua vội vã, chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu. Mà lúc đó đã là cuối cuộc vui, nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau, nhìn nhau như sắp lìa xa nhau.
Có tiếng người đi trong gió thu, những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai, như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa. Sợi dây đã đứt từ lâu, và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào.
Tôi không ngờ rằng tất cả đã kết thúc, tôi còn giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại. Biệt ly vội vàng quá, vẫy tay chào nhau, còn ghi nhớ hơi thở em, còn nhớ đến tóc dài em, còn đôi khi tìm hình bóng em…
Khi mùa thu quay trở lại, tôi không biết phải tất cả đã như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác, mai một, mất đi không dấu vết.
Khó lòng gặp nhau, sao dễ lìa nhau, mà hoa như tuyết dễ tàn…
Rất lâu về sau, rất lâu, rất lâu…
Hôm đó, tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất.
Huệ nhãn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nhìn thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ nghìn năm trong lòng tôi. Bồ Tát kinh hãi bởi, một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự. Bồ Tát thở dài: “Chúng sinh nơi bể khổ, quay đầu lại là bờ”.
Nhưng tôi đã không hiểu lời của Ngài.
Tôi mang tất cả những nỗi lòng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe. Bồ Tát hỏi tôi: “Cái gì là Duyên?” Tôi không trả lời nổi.
Bồ Tát lại hỏi tôi: “Cái gì là Tình?” Tôi hoàn toàn không rõ.
Cuối cùng, Bồ Tát hỏi tôi: “Ngươi muốn gì?”.
Không ghìm giữ nổi bản thân, tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hãy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên.
Bồ Tát đồng ý, đồng ý cho tôi đổi nghìn năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi.
Cuối cùng, Bồ Tát nói: “Vạn sự tuỳ Duyên, đừng Chấp nữa!”.
Hôm đó, tôi cuối cùng đã được chuyển thế làm người rồi. Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đã là Thiếu gia. Thời gian trôi, tôi lớn lên, tôi phải lòng cô gái nhà hàng xóm.
Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đã hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau.
Nhưng tôi nhận ra, tôi càng ngày càng thích cô ấy.
Và tôi nghĩ, cô ấy hẳn cũng phải thích tôi. Năm cô 18 tuổi, cha mẹ không ngăn cản được ý tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân, gia đình cô tất nhiên nhận lời ngay.
Hôm đó, tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được, tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn. Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về, mơ hồ dự cảm một điều gì đó sẽ xảy ra.
Quả nhiên, ngày tôi đón dâu về, cô ấy đã bỏ trốn cùng một người con trai trong làng.
Cha tôi nổi trận lôi đình, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người. Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc, mê hoảng, khiếp sợ, không biết nên nói gì, chỉ biết đứng đực ra nhìn cô.
Cô ấy cũng nhìn tôi, con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi. Trong lúc bối rối hoang mang, trái tim tôi co thắt lại:
“Cô ấy hận thù tôi!”
Trước mắt tôi tối sầm…
Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đã cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát…
Tôi vừa nghe thấy tin đó, cả thế giới dường như không còn tồn tại nữa, thời gian, không gian như hoá thành hư không… Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ còn lại nét mặt xám tối.
Viên thuỷ tinh quá khứ đã vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần, tan vào trong gió.
Gió ơi gió về đâu? Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đã lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một mình, gào thét ở tận cùng thế giới, thét gào vô tận.
Đêm đen sẽ đến, sự sống sẽ tiêu tàn, vì sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, vì sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau? Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nhìn tôi.
Chờ khi tôi định thần, Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu, hồn tôi đã lìa khỏi xác…
Anh ta còn nói cho tôi biết, người con gái vì tình mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đã phải đi vào thành Uổng Tử rồi!
Đầu óc tôi mụ mị, tất cả mọi ký ức đều dội tới, tôi không biết phải làm gì… Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng.
Tôi không nén được hỏi ngài: “Vì sao cô ấy hận thù tôi?”.
Bồ Tát nói, đấy là nhân quả.
Tôi hỏi, nhân quả là gì.
Bồ Tát nói: “Hữu duyên chính là nhân quả.
Ngươi đã từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi, đó chính là nhân quả.
Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi vì cô ấy đã bị chết oan vì ngươi.
Cô ấy vì ngươi mà chết, cho nên cô ấy đòi ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi.
Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào thì kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm gì có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi! Có đến có đi, nhưng trước sau không có sinh không có tử”.
Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều gì đặc biệt. Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế.
Tôi đã sai lầm. Tôi đã bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi. Tôi đã bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được hạnh phúc làm người của tôi.
Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người còn phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù.
Nhưng nếu cứ luân hồi mãi mãi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đã làm gì, trong một cõi nhân gian hẹp hòi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải?
Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người còn Chấp thì sao hiểu ý nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc mình đã làm họ lại hối tiếc.
Còn tôi, chí ít, tôi đã không hối tiếc.
Giờ đây, tôi đã hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát.
Bởi tôi đã nếm trải được hạnh phúc, nếm trải được đau thương, đã từng hạnh phúc, đã từng đau thương. Đã có được một giấc mộng một nghìn năm, đã có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đã có tất cả, tôi đã mãn nguyện rồi.
Tôi, cuối cùng, đã vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi tình nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đã ảo mộng suốt nghìn năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà.
Bởi tôi tin tưởng, lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy, một cô gái vĩnh viễn không đổi thay…