LUẬT THI ĐẤU
BOXING
Điều 1: VÕ ĐÀI
1.1. Yêu cầu:
Trong tất cả các
cuộc thi đấu, võ
đài cần tuân theo
những yêu cầu
sau:
1.1.1. Kích thước:
Mỗi cạnh hình
vuông của võ đài
tối thiểu phải là
4,9 m (16 feet) và
tối đa là 6,1 m (20
feet) tính từ phía
trong các dây đài.
Trong các cuộc thi
đấu quốc tế mỗi
cạnh võ đài phải là
6,1 m. Võ đài
không được thấp
hơn 0,91 m và cao
hơn 1,22 m (4
feet) so với mặt
đất hoặc sàn nhà.
1.1.2. Sàn và đệm
góc: Sàn phải
được thiết kế
chắc chắn an toàn
không lồi lõm và
mở rộng ra 46 cm
(18 inches) kể từ
các vòng dây đài.
Nó cũng cần phù
hợp với 4 cột góc,
các cột góc đài
phải được bọc lót
tốt để không gây
chấn thương cho
các vận động viên.
Góc đài được sắp
xếp như sau: Góc
khu vực bên trái
đối diện Chủ tịch
Hội đồng giám sát
(giám sát trưởng)
là góc đỏ, góc trái
xa hơn là góc
trắng (trung lập),
góc phải xa hơn là
góc xanh, góc phải
gần hơn là góc
trung lập.
1.1.3. Bao phủ sàn
đài: Sàn đài được
bao phủ bằng một
lớp da (phớt) hoặc
cao su, hoặc chất
liệu phù hợp đã
được chấp thuận
có độ đàn hồi tốt,
có độ dày không
được mỏng hơn
1,3 cm và không
dày quá 1,9 cm.
Tấm thảm này cần
được trải phẳng
và cố định ở một
vị trí đồng thời
cũng đủ rộng để
bao phủ cả phần
phía ngoài của
sàn đấu.
1.1.4. Dây đài: Có 3
hoặc 4 dây đài có
đường kính ít
nhất 3 cm và tối
đa 5 cm được cột
chặt từ các góc
của sàn đài có
chiều cao so với
mặt sàn là 40 cm,
80 cm và 130 cm.
Trong trường hợp
có 4 dây đài thì
chiều cao lần lượt
là 40,6 cm, 71,1 cm,
101,6 cm và 132,1
cm. Các dây đài
được bao bao bọc
bởi các dây băng
có chất liệu mềm
mại và êm ái có
đường kính 3 đến
4 cm. Các dây này
không được trượt
trên dây đài.
1.1.5. Cầu thang:
Võ đài phải có 3
cầu thang. Hai cầu
thang ở hai góc
đối diện nhau
dành cho vận
động viên (VĐV)
và săn sóc viên,
một cầu thang ở
góc trung lập
dành cho trọng tài
và bác sĩ sử dụng.
1.1.6. Túi nhựa: Ở
hai góc đài trung
lập phía bên
ngoài đài đấu, mỗi
góc treo một túi
nhựa đựng bông,
băng để trọng tài
sử dụng khi vận
động viên bị chảy
máu hoặc để
trọng tài ném
khăn lau, giấy lau
do ông ta sử dụng.
1.2. Võ đài dự bị:
Trong những giải
đấu vô địch quan
trọng, có thể sử
dụng 2 võ đài.
ĐIỀU 2: GĂNG ĐẤU
2.1. Găng được
phép:
Vận động viên
mang găng màu
đỏ hoặc xanh tuỳ
thuộc góc đài VĐV
được chỉ định và
không được mang
găng của mình.
2.2. Quy cách:
Găng tay nặng
284g (10 ounces)
trong đó phần da
không được nặng
hơn 1/2 tổng
trọng lượng và
phần nhồi độn
không được nhẹ
hơn 1/2 tổng
trọng lượng. Diện
tích tiếp xúc hợp
lệ phải được đánh
dấu trên găng có
màu sắc khác biệt
rõ rệt với màu của
găng. Phần nhồi
của găng không
được phép thay
thế hoặc bị bể vỡ.
Trong các giải
quốc tế được
AIBA công nhận,
chỉ có găng loại
VELCRO được
phép sử dụng.
Găng tay phải
sạch sẽ và sẵn
sàng sử dụng mới
được phép dùng.
2.3. Các thủ tục
kiểm tra găng của
AIBA:
AIBA sẽ tiếp tục
phân loại các nhà
sản xuất găng
Boxing cho các giải
đấu của AIBA, các
nhà sản xuất phải
thiết kế để đáp
ứng được yêu cầu
của AIBA đối với
găng loại 284g
(10,0Z). Găng phải
được xét nghiệm
bởi Uỷ ban thiết bị
và an toàn của
AIBA và phải được
Uỷ ban điều hành
chấp thuận. Nếu
được, găng của
nhà sản xuất sẽ
được đóng dấu
chất lượng chính
thức và được
dùng trong các
giải đấu không
chuyên.
Mỗi nhà sản xuất
găng được AIBA
chuẩn chấp phải
đặt cọc 1 khoản
tại AIBA để đảm
bảo chất lượng và
AIBA sẽ dùng số
tiền này để phạt
những đôi găng
chưa đạt chất
lượng. Thủ tục
này sẽ được
thông báo cho các
nhà sản xuất
găng.
Trách nhiệm của
AIBA trong mỗi giải
đấu phải kiểm tra
găng thi đấu. AIBA
kiểm soát các giải
đấu của liên đoàn,
văn phòng khu
vực đối với các
giải đấu lục địa và
liên đoàn quốc gia.
Trừ trường hợp
AIBA có đặt riêng
găng với các nhà
sản xuất găng,
thông thường
Ban tổ chức giải
thi đấu sử dụng
loại găng AIBA đã
chuẩn thuận có
sẵn nhất. Tất cả
VĐV trong bất kỳ
giải thi đấu nào
cũng phải mang
găng đúng quy
cách trên.
2.4. Viên chức
giám sát đeo
găng của AIBA:
Găng và các băng
quấn tay dùng cho
thi đấu được kiểm
soát bởi 2 viên
chức có kinh
nghiệm được chỉ
định trên cơ sở
luật lệ. Họ sẽ thực
hiện trách nhiệm
về an toàn và
đảm bảo mọi luật
lệ đều được giám
sát kỹ lưỡng cho
đến khi VĐV bước
lên võ đài.
ĐIỀU 3: BĂNG
QUẤN TAY
3.1. Quy cách:
Băng "VELPEAU"
không dài hơn
2,5m cho mỗi tay
sẽ được dùng. Bất
kỳ các loại băng
khác đều không
được phép sử
dụng. Việc sử dụng
bất kỳ loại băng
dán, cao su dán
hoặc plastic dán
đều bị nghiêm
cấm. Nếu sử dụng
băng dán có chiều
dài 7,6cm, rộng 2,5
cm, để cố định
băng quấn tay
vào cổ tay thì
được phép.
3.2. Các giải châu
lục, thế giới và
Olympic:
Băng tay được sử
dụng sẽ do nước
chủ nhà cung cấp.
VĐV sẽ được cung
cấp băng tay mới
nguyên bởi các
viên chức thay áo
quần ngay trước
khi bước vào trận
đấu.
ĐIỀU 4: TRANG
PHỤC
4.1. Trang phục
được phép sử
dụng:
Các VĐV phải mặc
trang phục theo
những quy định
sau:
4.1.1. Quần áo:
VĐV phải mang
giày hoặc ủng
màu sáng không
nhọn mũi và
không có gót giày,
mang tất ngắn,
quần đùi không
dài tới đầu gối, áo
lót che kín vùng
ngực và lưng.
Trong các trận
đấu quốc tế,
Olympic, World Cup,
giải Vô địch thế
giới, các giải Vô
địch thế giới (dưới
19 tuổi), Đại hội
thể thao thiện chí
hay bất kỳ giải
đấu nào được
AIBA thông qua,
VĐV sẽ được mặc
áo màu đỏ hoặc
xanh tuỳ thuộc
vào góc đài được
chỉ định và chịu
hoàn toàn trách
nhiệm về màu của
mình. Trang phục
thi đấu có thể in
tên nước của VĐV
phù hợp với kích
cỡ và đặc điểm đã
được AIBA chấp
thuận, không lớn
hơn 100 cm2 . Nếu
quần áo cùng màu
thì đai lưng phải
được nhìn thẳng
một cách rõ ràng
bằng cách sử
dụng đai lưng
bằng chất liệu co
dãn rộng 10 cm. Vị
trí của đai lưng là
một đường tưởng
tưởng từ rốn
xuống hông.
4.1.2. Dụng cụ bảo
vệ răng:
VĐV buộc phải sử
dụng : Bọc răng
phải vừa vặn khít
chặt vào hàm trên
của VĐV. Nước
đăng cai tổ chức
thi đấu phải cung
cấp đầy đủ dụng
cụ bảo vệ răng cho
các VĐV tham gia
thi đấu mà chưa
có bọc răng và
Liên đoàn quốc
gia của các VĐV
này sẽ thanh toán
tiền. Khi đang thi
đấu, nghiêm cấm
VĐV làm rớt bọc
răng ra ngoài và
nếu cố tình sẽ bị
trọng tài cảnh cáo
hoặc tước quyền
thi đấu. Nếu một
VĐV bị một cú đấm
làm văng bọc răng
ra ngoài, trọng tài
sẽ dẫn VĐV đến
góc đài của VĐV
này, cho rửa sạch
bọc răng và cho
VĐV mang lại.
Trong lúc này, săn
sóc viên không
được phép nói
chuyện với VĐV.
Nếu bọc răng bị
rớt ra 3 lần vì bất
kỳ lý do gì, VĐV sẽ
bị cảnh cáo và nếu
còn tiếp tục sẽ
nhận được cảnh
cáo lần thứ 2.
4.1.3. Bảo vệ hạ
bộ:
VĐV cần có thiết bị
bảo vệ hạ bộ, có
thể mang thêm
coki (Jock - Strap).
4.1.4. Bảo vệ đầu:
Mũ bảo vệ là một
trang bị cá nhân
của VĐV và phải
được làm vừa vặn
với đầu của VĐV.
Mặc dù vậy, VĐV
phải đăng ký màu
đỏ hoặc xanh của
mũ bảo hiểm trong
các trận đấu do
AIBA tổ chức. Việc
sử dụng mũ bảo
hiểm phải đúng
quy cách của AIBA,
được AIBA phân
loại và kiểm tra
qua uỷ ban thiết
kế và an toàn. Uỷ
ban điều hành của
AIBA sẽ xem xét
và chấp nhận các
thể loại mũ bảo
hiểm khác nhau
với điều kiện như
Điều 2.3 đoạn 2
đã quy định. Vận
động viên phải đội
mũ bảo vệ khi thi
đấu và sẽ được
tháo ra ngay khi
trận đấu kết thúc
và trước khi công
bố quyết định.
4.2. Những vật
cấm dùng:
Ngoài những
trang bị trên, VĐV
không được sử
dụng các vật khác
khi thi đấu. Việc sử
dụng các chất bôi
trơn bằng
vaseline, mỡ dầu
hoặc các sản phẩm
khác có thể gây
hại cho đối
phương được bôi
trên mặt, cánh tay
hoặc bất kỳ bộ
phận nào của cơ
thể đều bị cấm.
VĐV sẽ được lau
sạch các chất này
trong cuộc kiểm
tra y tế trước khi
cân. Không đựơc
để râu, ria mép
mỏng có thể được
chấp nhận nhưng
không dài quá môi
trên.
4.3. Những vi
phạm về trang
phục:
Trọng tài sẽ loại
VĐV ra khỏi trận
đấu nếu VĐV này
không đội mũ,
không bảo vệ hạ
bộ, bảo vệ răng
hoặc nếu VĐV
không sạch sẽ,
trang phục không
đúng quy định.
Nếu găng tay,
quần áo của VĐV
khi thi đấu bị tuột,
trọng tài sẽ cho
ngừng trận đấu
để sửa chữa lại
chỉnh tề.
4.4. Đồng phục:
Các văn phòng lục
địa và các tổ chức
khu vực khi cử đội
tuyển hỗn hợp
trong các cuộc thi
đấu quốc tế cần
sắp xếp cho VĐV
mặc đồng phục
sao cho không
mâu thuẫn với
luật lệ AIBA. Một
văn phòng lục địa
hay tổ chức khu
vực không đựơc
đòi hỏi một đội
tuyển quốc gia
mặc đồng phục
hay các trang
thiết bị ngược lại
với những gì mà
quốc gia đó thoả
thuận. Tuy nhiên,
VĐV đến từ nhiều
nước khác nhau
tham dự vào đội
tuyển khu vực có
thể yêu cầu tổ
chức khu vực cung
cấp đồng phục cho
họ.
ĐIỀU 5: THIẾT BỊ
VÕ ĐÀI
5.1. Yêu cầu cần
thiết: Những thiết
bị dưới đây cần
phải có sẵn:
5.1.1. Hai khay có
đáy nông có chứa
nhựa thông tán
vụn.
5.1.2. Hai ghế: Hai
ghế xoay cho VĐV
sử dụng trong khi
giải lao giữa hai
hiệp đấu.
5.1.3. Hai cốc bằng
nhựa dùng để
uống và súc miệng
nhưng không
được đựng nước,
hai chai xịt nước
bằng nhựa đựng
nước dùng để
uống. Ngoài ra
không được có
bất kỳ loại chai
nước nào khác để
VĐV và săn sóc
viên sử dụng tại
võ đài...Hai chậu
đựng mùn cưa và
hai xô nước.
5.1.4. Bàn và ghế
cho các viên chức.
5.1.5. Một cái cồng
(có đùi) hay một
cái chuông.
5.1.6. Một (tốt hơn
là hai) đồng hồ
bấm giây.
5.1.7. Các tập
phiếu điểm theo
mẫu của AIBA.
5.1.8. Một túi
thuốc cấp cứu.
5.1.9. Một micrô nối
với hệ thống phát
thanh.
5.1.10. Hai đôi
găng cùng một
nhà sản xuất như
đã miêu tả ở Điều
2.
5.1.11. Một cái
cáng.
5.1.12. Hai mũ bảo
vệ đầu (1 đỏ, 1
xanh).
ĐIỀU 6: KIỂM TRA
Y TẾ VÀ CÂN CHO
CÁC GIẢI ĐẤU
QUỐC TẾ
6.1. Kiểm tra y tế:
6.1.1. Trong thời
gian cân đo, VĐV
phải được 1 bác sĩ
do Hội đồng chấp
hành chỉ định công
nhận đủ tiêu
chuẩn để thi đấu.
Để đảm bảo tiến
hành tốt cân đo,
Hội đồng chấp
hành có thể quyết
định tiến hành,
kiểm tra y tế sớm
hơn.
6.1.2. Tại cuộc
kiểm tra y tế và
cân đo, VĐV phải
xuất trình bảng
kết quả kỷ lục các
giải đấu quốc tế
trong sổ thi đấu
đã được chuẩn
nhận bởi thư ký
hoặc Giám đốc
điều hành của
Liên đoàn quôc
gia, các quan chức
ký tên vào sổ thi
đấu của VĐV và
chịu trách nhiệm
về chữ ký của
mình. Nếu VĐV
không xuất trình
sổ thi đấu tại cuộc
kiểm tra y tế và
cân đo sẽ không
được phép thi
đấu.
6.1.3. Để có đủ
điều kiện thi đấu,
một nữ VĐV phải
xuất trình sổ kỷ
kục thi đấu quốc
tế và trả lời bằng
những kiến thức
tốt nhất với bất
kỳ câu hỏi nao
được viên chức y
tế đưa ra. Nữ VĐV
cần phải xác nhận
bằng biên bản
rằng mình không
mang thai. Nếu
cuộc thi đấu hỗn
hợp có cả nam và
nữ, cần sắp xếp
phòng riêng biệt
cho nam và nữ khi
kiểm tra y tế và
cân đo. Thủ tục
kiểm tra y tế cho
nữ VĐV được
hướng dẫn trong
sách kiểm tra y tế
của AIBA.
6.2. Các hạng cân:
Hệ thống cân theo
KG (METRIC) và hệ
thống
AVIORDUPOIS
được sử dụng chia
làm 12 hạng cân
từ 48 kg (105 LB)
đến trên 91 kg
(200 LB).
• Hạng cân: đến 45
kg
Bán ruồi: đến 48
kg Bán trung: đến
67 kg
Ruồi: đến 51 kg
Trên bán trung:
đến 71 kg
Gà: đến 54 kg
Trung: đến 75 kg
Lông: đến 57 kg
Dưới nặng: đến 81
kg
Nhẹ: đến 60 kg
Nặng: đến 91 kg
Trên nhẹ: đến
63,5 kg Siêu nặng
trên 91 kg
Tại các giải thi đấu
tại khu vực Đông
Nam Á gồm 12
hạng cân từ
không quá 45 kg
đến 95 kg. Nữ VĐV
được thi đấu theo
12 hạng cân bắt
đầu từ 45 kg đến
trên 81 kg.
6.3. Cân kiểm tra:
6.3.1. Tại giải vô
địch thế giới,
Olympic, giải vô
địch Châu lục, giải
vô địch quốc tế và
giải thi đấu quốc
tế, các Luật về
cân đo sau đây
được áp dụng:
6.3.1.1. VĐV tham
dự các hạng cân
đều phải sẵn sàng
để cân đo vào
buổi sáng đầu
tiên của trận đấu
và giờ được chỉ
định từ 8 giờ đến
10 giờ sáng. Vào
những ngày tiếp
theo, chỉ những
VĐV bốc thăm lên
đài mới phải có
mặt để cân kiểm
tra từ 8 giờ đến 9
giờ sáng. Hội đồng
chấp hành hoặc
các tổ chức AIBA
uỷ nhiệm mới có
quyền thay đổi
đôi chút thời gian
nếu có những
chậm trễ không
tránh được. Trận
đấu không thể bắt
đầu sớm hơn 3
tiếng so với thời
gian quy định sau
khi chấm dứt cân
đo hoặc có thể
ngắn hơn nếu hội
đồng chấp hành
sau khi tham vấn
Uỷ ban y tế xét
thấy thuận tiện
và không gây bất
lợi cho các VĐV
tham gia trận đấu
đầu tiên của phiên
đấu sau.
6.3.1.2. Việc cân đo
chỉ có hiệu lực khi
có đại diện uỷ
quyền của AIBA.
Một viên chức của
Liên đoàn quốc
gia dự giải có thể
có mặt tại thời
điểm cân đo
nhưng không
được phép can
thiệp.
6.3.1.3. Trọng
lượng được đo tại
buổi cân đo chính
thức của ngày
đầu tiên sẽ là
hạng cân chính
thức được xác lập
của VĐV đó trong
suốt giải thi đấu.
Tuy vậy, ngày
nào thi đấu cũng
phải cân lại để
đảm bảo trọng
lượng thực tế của
ngày hom đó
không vượt quá
trọng lượng tối đa
của lượng cân.
Một VĐV chỉ có thể
thi đấu trong hạng
cân mà họ đã
được chấp nhận
tại buổi cân đo
chính thức.
6.3.1.4. VĐV chỉ cần
có mặt một lần
trong một ngày
tại bàn cân kiểm
tra chính thức.
Trọng lượng ghi
trong lần đó là
chính thức. Tuy
nhiên có thể cho
phép đại diện của
một nước, có VĐV
đã cân nhưng
không đáp ứng
được trọng lượng
của hạng cân đó,
được ghi danh
vào hạng cân
nặng hơn hoặc
nhẹ hơn cân gốc
của mình với điều
kiện là nước này
chưa có VĐV ở
hạng cân đó và
việc cân đo vẫn
đang tiến hành
chưa kết thúc.
Cũng cho phép
một quốc gia có
thể thay thế một
VĐV này bằng một
VĐV khác vào thời
gian bất kỳ cho tới
khi kết thúc lần
cân đo đầu tiên
của buổi kiểm tra
sức khoẻ với điều
kiện là giải thi đấu
cho phép thay
người và thay thế
này đã được ghi
danh VĐV dự bị
trong cùng một
thứ hạng hay có
trọng lượng khác.
6.3.1.5. Trọng
lượng được xác
định bởi bàn cân,
VĐV phải cởi hết
quần áo khi
cân.Trọng lượng
được chỉ ra bằng
hệ METRIC (hệ
mét). Cân đo điện
tử có thể được sử
dụng.
6.4. Các giải đấu
liên quốc gia:
6.4.1. Trong các
cuộc thi đấu giữa
hai hoặc hơn hai
quốc gia trở lên,
việc cân đo kiểm
tra sẽ được thực
hiện bởi các thành
viên do Liên đoàn
quốc gia nước tổ
chức chỉ địnhvà
được sự trợ giúp
của đại diện một
hay nhiều quốc gia
giúp đỡ và cơ
quan kiểm tra
trọng lượng của
mỗi VĐV.
6.4.2. Nếu một
VĐV vượt quá
mức trọng lượng
quy định của hạng
cân mà VĐV này
đăng ký thì anh
ta có thể được thi
đấu nếu mức
trọng lượng
không vượt quá
454 gr. Nhưng dù
cho kết quả trận
đấu đó có ra sao
đi nữa thì VĐV đó
chỉ mang lại cho
đội tuyển của
mình số điểm
dành cho người
thua và đối thủ
của họ sẽ dành
được điểm cho
người thắng (với
điều kiện là VĐV
này đã kiểm tra
sức khoẻ và cân
đo đúng hạng cân
quy định của ngày
thi đấu và lên võ
đài với trang phục
của VĐV). Nếu cả
hai VĐV đều vượt
quá hạng cân quy
định, cả hai đội
tuyển của hai VĐV
đều được điểm
của người thua
cuộc. Nếu trọng
lượng vượt quá
mức 454 gr ( 1 cân
Anh) nhưng không
quá 2,7 kg (6 cân
Anh) người đại
diện chính thức
của đại diện đội
tuyển đối phương
sẽ được quyền
chấp nhận VĐV
vượt cân này thi
đấu và trận đấu
sẽ được xem xét
cân nhắc kết quả
nếu VĐV vượt cân
này chiến thắng.
Một VĐV phải
được công nhận là
đủ sức khoẻ do
một bác sĩ chỉ định
thì mới được vào
bàn cân.
6.4.3. Trong các
cuộc thi đấu liên
quốc gia hay quốc
tế, việc cân đo các
VĐV có thể thực
hiện trong 30
phút. VĐV vượt
quá hạng cân cho
phép hoặc không
có mặt trong thời
gian cân đo thì sẽ
được coi như là
thua cuộc.
6.4.4. Hội đoàn của
nước đăng cai giải
thi đấu khi tiếp
nhận một đội
tuyển phải đặt
một bàn cân ở nơi
tập luyện của đội
tuyển đó ngay khi
họ đến thành phố
sẽ diễn ra các trận
đấu.
ĐIỀU 7: BỐC THĂM
VÀ ĐƯỢC MIỄN
ĐẤU
7.1. Bốc thăm:
Lễ bốc thăm diễn
ra ngay sau khi
kiểm tra y tế và
cân đo, có sự hiện
diện của các đại
diện chính thức
của các đội tuyển
có liên quan và
phải đảm bảo một
cách thực tế rằng
không có một đối
thủ nào sẽ phải thi
đấu hai trận trước
khi các VĐV khác
chỉ mới thi đấu
một trận. Trong
trường hợp đặc
biệt, Uỷ ban điều
hành của AIBA có
quyền không sử
dụng luật này. Bốc
thăm các VĐV thi
đấu trước tiên ở
đợt 1, rồi đến
những VĐV được
miễn thi đấu. Mặc
dù vậy, không có
VĐV nào có thể
dành được huy
chương thế giới,
Châu lục hay
Olympic mà không
tham gia thi đấu.
7.2. Được miễn thi
đấu:
Trong các cuộc thi
đấu có hơn 4 VĐV,
sẽ rút thăm vòng
đầu để chọn đủ
một số người
được miễn đấu
sao cho số lượng
VĐV thi đấu ở
vòng 2 là 4,8,16
hoặc 32. Các VĐV
được miễn ở vòng
đầu là những
người thi đấu đầu
tiên ở vòng 2. Nếu
số lượng được
miễn lại là số lẻ,
VĐV có thăm được
miễn sau cùng sẽ
thi đấu ở vòng 2
với người thắng ở
trận đầu của vòng
1. Nếu là số chẵn,
các VĐV được
miễn thi đấu sẽ
đấu trước tiên ở
vòng 2 theo thứ
tự họ sẽ bốc thăm,
không một VĐV
nào được nhận
huy chương nếu
không tham gia thi
đấu ít nhất 1 lần.
7.3. Trình tự trong
chương trình thi
đấu:
Trong các giải thế
giới, Olympic và
Châu lục, thứ tự
của chương trình
nên được sắp xếp
để mỗi loạt trận
của các hạng cân
nhẹ nhất được
tiến hành trước
và sau đó tăng
dần lên hạng cân
nặng hơn trong
loạt trận này, rồi
cứ tiếp tục như
vậy. Trong việc
sắp xếp chương
trình hàng ngày,
mong muốn của
nước chủ nhà có
thể đáp ứng để
tránh tình trạng
yêu cầu kết quả
bốc thăm.
ĐIỀU 8: CÁC HIỆP
ĐẤU
8.1. Ở các giải đấu
thế giới, Olympic,
Châu lục sẽ có 4
hiệp đấu, mỗi hiệp
2 phút (Điều luật
này có hiệu lực từ
ngày 1/1/1999,
dừng trận đấu để
cảnh cáo, nhắc
nhở, sửa sang lại
trang phục cho
chỉnh tề hay bất
cứ lý do nào khác
không được tính
trong 2 phút này).
Giữa hai hiệp đấu
có một phút nghỉ,
không có hiệp đấu
thêm nào được
đưa ra.
8.2. Các trận đấu
quốc tế: Các hiệp
đấu thông
thường giống như
ở trên, nhưng nếu
có sự thoả thuận
trước 3 hoặc 4
hiệp, mỗi hiệp đấu
3 phút hoặc 6
hiệp, mỗi hiệp 2
phút có thể chấp
thận, giữa các
hiệp đấu bao giờ
cũng được nghỉ
một phút.
ĐIỀU 9: SĂN SÓC
VIÊN
9.1. Mỗi VĐV được
đăng ký 2 săn sóc
viên và phải tuân
theo các điều lệ
dưới đây:
9.1.1. Chỉ có 2 săn
sóc viên được
bước lên tấm
thảm lề của võ đài
và chỉ duy nhất
một người được
bước vào trong
võ đài.
9.1.2. Khi đang
đấu, không một
săn sóc viên nào
được lên võ đài.
Trước khi hiệp
đấu bắt đầu, săn
sóc viên phải dọn
khỏi sàn đài các
ghế ngồi, khăn, xô
nướcv.v...
9.1.3 Săn sóc viên
đứng ở góc đài,
dưới chân võ đài
có một khăn và
một miếng xốp để
dùng cho VĐV
đang thi đấu. Săn
sóc viên có thể
thay mặt cho VĐV
của mình xin bỏ
cuộc và cũng có
thể cho rằng VĐV
gặp khó khăn
bằng cách ném lên
võ đài miếng xốp
hoặc khăn, trừ
trường hợp trọng
tài đang đếm.
9.1.4. Chủ tịch Uỷ
ban Trọng tài và
Giám định ở mỗi
giải đấu sẽ tổ chức
một cuộc họp các
Trọng tài, Giám
định và săn sóc
việc liên quan đến
giải đấu để nhấn
mạnh rằng luật lệ
của AIBA phải
được tôn trọng và
các VĐV vi phạm
điều luật không
những bị mất điểm
mà còn bị tước
danh hiệu vô địch
bởi vi pham các
điều luật.
9.1.5. Không có
một lời khuyên,
sự trợ giúp hoặc
động viên nào của
săn sóc viên được
đưa ra cho VĐV
của mình khi đang
diễn ra trận đấu.
Nếu săn sóc viên
phạm luật có thể
bị cảnh cáo hoặc
truất quyền. VĐV
cũng sẽ bị cảnh
cáo, nhắc nhở
hoặc truất quyền
bởi trọng tài nếu
săn sóc viên phạm
luật. Săn sóc viên
hay bất kỳ viên
chức nào khuyến
khích, kích động
khán giả bằng lời
nói dấu hiệu hoặc
chỉ dẫn VĐV khi
hiệp đấu đang
diễn ra đều không
được hoạt đông
với cương vị săn
sóc viên hay viên
chức của giải đấu.
Nếu săn sóc viên
bị Trọng tài đuổi
khỏi góc đài, họ sẽ
không được thi
hành nhiệm vụ
trong buổi thi đấu
đó. Mọi nhân viên
bị trọng tài đuổi
khỏi góc võ đài
phải dời nơi thi
đấu cho tới khi
buổi thi đấu đó
chấm dứt. Nếu
trong suốt thời
gian thi đấu của
giải, họ bị đuổi lần
thứ hai, thì coi
như là bị chấm dứt
nhiệm vụ trong
giải đấu đó.
ĐIỀU 10: TRỌNG
TÀI VÀ GIÁM ĐỊNH
10.1. Trong các
Đại hội Olympic, Vô
địch thế giới,
World Cup, Cúp
luân lưu của AIBA,
giải Châu lục và
các trận vô địch
Quốc tế khác,
Trọng tài mỗi trận
đấu sẽ do AIBA
công nhận điều
khiển võ đài
nhưng không
được chấm điểm.
10.2. Giám định:
Mỗi trận đấu có 5
giám định của
AIBA chấm điểm,
chỗ ngồi của họ
cách biệt với khán
giả gần sát võ đài.
Hai trong 5 Giám
định ngồi cùng
một phía chính
của võ đài, mỗi
người cách nhau
một quãng và
những người còn
lại ngồi ở 3 cạnh
của võ đài. Nếu
không đủ 5 Giám
định, có thể sử
dụng 3 Giám định
cũng được, nhưng
không áp dụng ở
Đại hội Olympic,
Giải Vô địch Thế
giới và Giải vô địch
Châu lục. Trong
trận đấu của các
nữ VĐV, số lượng
giám định là 2 nam
và 2 nữ.
10.3. Các trận đấu
Quốc tế: Các trận
đấu Quốc tế có số
lượng đội tuyển
của từ 2 quốc gia
trở lên, trận đấu
sẽ được điều
khiển bởi những
thành viên đã
được đại diện của
các Liên đoàn
quốc gia thoả
thuận nhưng
không trái với các
điều luật về Trọng
tài và Giám định
của AIBA.
10.4. Sự trung lập:
Để đảm bảo sự
trung lập, danh
sách của các
Trọng tài và Giám
định của từng trận
đấu sẽ được Uỷ
ban trọng tài và
Giám định lựa
chọn theo chỉ dẫn
sau:
10.4.1. Mỗi người
được lựa chọn
phải được chuẩn
nhận là Trọng tài
hoặc Giám định.
10.4.2. Trọng tài
và Giám định phải
thuộc một nước
hay một Hội đoàn
khác với nước và
Hội đoàn của VĐV
thi đấu.
10.4.3. Mỗi viên
chức này không
được là công dân
của quốc gia bị chi
phối, thuộc địa
hoặc phụ thuộc
vào quốc gia có
VĐV tham dự hoặc
cư trú tại nước
đó.
10.4.4. Nếu một
viên chức đã thay
đổi quốc tịch thì
họ không được
phép nhận nhiệm
vụ trong bất kỳ
trận đấu nào có
VĐV của nước
trước đây họ
mang quốc tịch.
10.4.5. Bất kỳ
trường hợp nao
cũng không thể có
quá 2 viên chức
cùng một lục địa
trong cùng một
trận đấu.
10.4.6. Việc chỉ
định các viên chức
này được Uỷ ban
Trọng tài và Giám
định tiến hành bốc
thăm gần võ đài
ngay trước khi
trận đấu diễn ra.
Các Trọng tài,
Giám định cho các
trận chung kết sẽ
do Hội đồng Chấp
hành chỉ định.
10.4.7. Khi Uỷ ban
Trọng tài và Giám
định không thể áp
dụng các chỉ dẫn
trên đây, trong
các trường hợp
đặc biệt, Uỷ ban
phải giải quyết
dựa trên sự đảm
bảo tốt nhất tính
trung lập và vô tư
của các viên chức
được chỉ định và
báo cáo lên Hội
đồng Chấp hành
càng sớm càng
tốt.
10.4.8. Khi Uỷ ban
Trọng tài và Giám
định không có
cách nào khác để
thi hành các chỉ
dẫn trên đây thì
Chủ tịch Uỷ ban
(hay người được
uỷ quyền) sẽ tổ
chức rút thăm tên
của một hay nhiều
viên chức để chọn
Trọng tài và Giám
định cho trận đấu
này.
10.5. Tranh chấp
quyền lợi: Viên
chức được chon
làm Trọng tài và
Giám định không
được hoạt động
trên cương vị
Trưởng đoàn,
Huấn luyện viên
hay săn sóc viên
trong bất cứ một
trận đấu nào hay
một loạt trận đấu
nào đó cho bất kỳ
VĐV nào hay đội
tuyển nào tham
gia thi đấu và
không được làm
nhiệm vụ của mình
khi có VĐV của
quốc gia mình
tham dự trận đấu.
10.6. Hình thức kỷ
luật: Hội đồng
Chấp hành hay cơ
quan do họ uỷ
nhiệm có thể theo
khuyến cáo của
Giám sát trưởng
không cho một
trọng tài làm việc
(tam thời hoặc
vĩnh viễn) vì
Trọng tài này
không áp dụng
hữu hiệu các Điều
luật của AIBA hoặc
một Giám định
trong cách ghi và
chấm điểm các
trận đấu được cân
nhắc là không hài
lòng.
10.7. Thay thế
trọng tài trong
thời gian diễn ra
trận đấu: Nếu
trọng tài mất khả
năng điều khiển
trận đấu, Trọng
tài thời gian sẽ gõ
chuông dừng trận
đấu và Trọng tài
trung lập trong
danh sách Quốc tế
của AIBA có mặt
sẽ điều khiển trận
đấu và ra lệnh thi
đấu tiếp tục.
10.8. Thiết bị ghi
điểm kỹ thuật: Tại
giải vô địch thế
giới, Olympic, giải
luân lưu của AIBA
và các trận đấu
Quốc tế bắt buộc
phải sử dụng máy
chấm điểm điện
tử.
10.9. Nhiệm vụ
phải có mặt: Hiệp
hội có Trọng tài
hoặc Giám định
Quốc tế được
AIBA lựa chọn có
trách nhiệm cử
Trọng tài, Giám
định để tham dự
các cuộc thi đấu
vô địch thế giới,
Olympic, Vô địch
Châu lục để họ làm
nhiệm vụ. Họ có
thể từ chối lời mời
nếu có lý do chính
đáng. Các quốc gia
có trách nhiệm
phải cung cấp tài
chính cho đội
tuyển Olympic của
họ còn tổ chức
nào điều hành giải
đấu sẽ phải có
trách nhiệm đài
thọ chi phí đi lại
và các khoản khác
cho các viên chức
phục vụ giải thi
đấu đó.
ĐIỀU 11: ĐIỀU
KIỆN GIA NHẬP
VÀ ĐƯỢC GHI
DANH SÁCH
TRỌNG TÀI, GIÁM
ĐỊNH QUỐC TẾ
11.1.Trọng tài
Quốc tế và Giám
định Quốc tế:
Danh hiệu
"Trọng tài và
Giám định Quốc
tế" là danh hiệu
cao nhất đối với
Trọng tài và
Giám định
Boxing nghiệp
dư. Họ được cấp
một văn bằng
"Trọng tài và
Giám định Quốc
tế", được nhận
huy hiệu của
AIBA và chứng
minh thư.
11.2. Ứng cử
viên được chọn
để ghi tên vào
danh sách Trọng
tài, Giám định
Quốc tế của
AIBA phải:
11.2.1. Được
Hiệp hội Quốc
gia của họ giới
thiệu và văn
phòng Châu lục
đề cử.
11.2.2. Đã có tên
trong danh sách
Trọng tài - Giám
định của tổ chức
Châu lục ít nhất
2 năm và hoàn
thành tôt nhiệm
vụ được giao
với tư cách là
Trọng tài - Giám
định Châu lục.
11.2.3. Có giấy
chứng nhận của
Ủy ban Y tế AIBA
được ký nhận
bởi Ủy ban Y tế
của Hiệp hội
Quốc gia xác
nhận có đầy đủ
sức khỏe và thể
lực để hoàn
thành nhiệm vụ
Trọng tài - Giám
định.
11.2.4. Một Hiệp
hội không được
có quá 12 thành
viên có tên
trong danh sách
và nếu quá thì
Hiệp hội phải rút
tên cho đủ theo
quy định.
11.2.5. Cần có
bản tóm tắt ghi
rõ kinh nghiệm
đã trải qua, thể
lực và chức
danh hai năm
trước đó của họ.
11.2.6. Nói tốt
một trong các
ngôn ngữ chính
thức của AIBA
(Anh, Pháp, Tây
Ban Nha, Nga,
Đức, Ả Rập).
11.3. Duy trì tên
trong danh sách
Quốc tế: Nhằm
duy trì và nâng
cao chất lượng
Trọng tài - Giám
định đảm bảo
việc thông suốt
các Luật lệ của
AIBA và lựa
chọn các Trọng
tài và Giám định
mới, Ủy ban
Trọng tài và
Giám định phải
tổ chức các khóa
học và kỳ thi
như sau:
11.3.1. Một hay
nhiều Hiệp hội
Quốc gia đề nghị
văn phòng AIBA
tổ chức khóa
huấn luyện và
kỳ thi kiểm tra
cho các viên
chức của họ tại
bất cứ nơi nào
trên thế giới vì
đã được chấp
thuận bởi văn
phòng Châu lục
liên quan. 11.3.2. Khóa
huấn luyện và
kiểm tra được
điều hành bởi 2
viên chức của
AIBA là Ủy viên
của Hội đồng
Chấp hành của
Ủy ban Trọng tài
- Giám định hoặc
là viên chức của
văn phòng Châu
lục được Hội
đồng Chấp hành
đề cử với sự
hợp tác của đại
diện của Hiệp
hội Quốc gia có
liên quan. Trong
Ban giám khảo
phải có ít nhất là
1 viên chức của
Hội đồng Chấp
hành AIBA. Ủy
ban Trọng tài -
Giám định
khuyến cáo rằng
tất cả các kỳ
kiểm tra phải
được điều hành
bởi viên chức
của Hội đồng
Chấp hành, một
trong số đó phải
là thành viên
của Ủy ban
"Trọng tài -
Giám định". Cả 2
thành viên này
phải có tên
trong danh sách
Trọng tài - Giám
định Quốc tế.
11.3.2.1. Các kỳ
thi kiểm tra để
tuyển vào danh
sách Trọng tài -
Giám định Quốc
tế của AIBA và
danh sách Trọng
tài - Giám định
Châu lục phải
được điều hành
bởi viên chức
của văn phòng
Châu lục. Trong
những trường
hợp ngoại lệ,
Chủ tịch AIBA có
thể giao quyền
này cho Ủy viên
Hội đồng Châu
lục khác. Các
ứng viên phải
hoàn thành bài
thi viết, thi vấn
đáp và thực
hành một cách
thành công mới
được chấp
thuận.
11.3.2.2. Bài
kiểm tra và các
hồ sơ liên quan
được lưu giữ tại
các văn phòng
Châu lục có uy
tín.
11.3.3. Chi phí ăn
ở, đi lại của 2
viên chức này
được chi trả bởi
một hay các
Hiệp hội Quốc
gia đã tổ chức
khóa huấn luyện
kiểm tra.
11.3.4. Kết quả
huấn luyện và
kiểm tra được
Ủy ban Trọng tài
- Giám định đệ
trình lên Hội
đồng Chấp hành
AIBA phê duyệt
tại phiên họp
ngay sau đó.
Quyết định này
sẽ được thông
báo cho văn
phòng Châu lục
và các Hiệp hội
Quốc gia liên
quan.
11.3.5. Ủy ban
Trọng tài - Giám
định ít nhất 04
năm một lần
phải tiến hành
kiểm tra năng
lực các Trọng tài
- Giám định có
tên trong danh
sách với danh
hiệu Trọng tài -
Giám định Quốc
tế. Nếu họ
không đạt yêu
cầu sẽ phải thi
lại để đạt danh
hiệu Trọng tài -
Giám định Quốc
tế này.
11.3.6. Những
viên chức không
đạt yêu cầu sẽ
không có tên
trong danh sách
Trọng tài - Giám
định Quốc tế.
11.3.7. Khi tới
tuổi 60, Trọng
tài - Giám định
AIBA cần được
kiểm tra về thể
lực và thần kinh,
nếu đạt yêu cầu
mới được chấp
nhận.
11.3.8. Trọng tài
- Giám định AIBA
được phân
thành 3 cấp: A,
B, C. Phân loại
này được quyết
định bởi Hội
đồng Chấp hành
căn cứ vào
khuyến cáo của
Ủy ban Trọng tài
- Giám đinh và
văn phòng Châu
lục. 11.3.9. Các
Hiệp hội Quốc
gia phải cung
cấp cho Chủ tịch
AIBA và Chủ tịch
Ủy ban Trọng tài
- Giám định danh
sáh năng lực của
họ và các thông
tin liên quan
đến các ứng
viên này và phải
gửi cho các cơ
quan này ít nhất
8 tuần trước
ngày kiểm tra.
11.4. Thủ tục: Ủy
ban Trọng tài -
Giám định phối
hợp với Tổng
thư ký chấp
nhận những thủ
tục sau đây cho
các khóa huấn
luyện và kiểm
tra:
11.4.1. Nếu một
hay nhiều Hiệp
hội Quốc gia
mong muốn đề
cử một hay
nhiều ứng viên
sẽ được cấp
mẫu hồ sơ để
điền vào các
thông tin cần
thiết.
11.4.2. Trong
cuộc hội thảo
được AIBA chấp
thuận, Hiệp hội
Quốc gia nước
tổ chức sẽ tổ
chức một khóa
huấn luyện và
kiểm tra cho các
ứng viên. Các
ứng viên này sẽ
làm nhiệm vụ
Trọng tài - Giám
định cho ít nhất
năm trận đấu
được các viên
chức của Ủy ban
Trọng tài - Giám
định hay của Ủy
ban Chấp hành
hoặc của văn
phòng Châu lục
chấm điểm.
11.4.3. Các viên
chức trên cũng
phỉa tham dự
chấm điểm tại
kỳ thi vấn đáp
để đảm bảo các
ứng viên Trọng
tài - Giám định
Quốc tế thông
suốt Luật lệ
AIBA và các chỉ
thị liên quan.
11.4.4. Các viên
chức trên phải
quyết định xem
xét các ứng viên
có đầy đủ phẩm
chất và năng lực
để đạt danh
hiệu Trọng tài -
Giám định Quốc
tế hay không.
Bản báo cáo
phải đầy đủ chữ
ký của các thành
viên, các thành
viên đều có thể
ghi nhận quan
điểm riêng của
mình và bản báo
cáo sẽ được gửi
đến Ủy ban
Trọng tài - Giám
định.
11.5. Trọng tài
và Giám định
danh dự: Hội
đồng Chấp hành
AIBA có thể trao
danh hiệu
"Trọng tài -
Giám định danh
dự của Quyền
Anh ngiệp dư"
cho các viên
chức đữ nghỉ
hưu có năng lực
xuất sắc và các
phẩm chất vượt
trội.
11.6. Điều 11
này cũng áp
dụng với Trọng
tài - Giám định
nữ có tên trong
danh sách Trọng
tài - Giám định
Quốc tế và Châu
lục.
ĐIỀU 12: BAN
GIÁM KHẢO
12.1. Trong giải
Vô địch thế giới
và Olympic, Hội
đồng Chấp hành
hoạt động với
tư cách Ban
giám khảo hoặc
chỉ định Ban
giám khảo.
Trong giải vô
địch Châu lục,
ban giám khảo
được chỉ định
bởi Hội đồng
Chấp hành của
Liên đoàn Châu
lục, nếu không
có tổ chức này
thì văn phòng
Châu lục sẽ chỉ
định. Trong các
buổi đấu (ngoài
trận chung kết),
Ban giám khảo
phải có không ít
hơn 3 người,
nhưng không
quá 5 người, kể
cả Chủ tịch
đương nhiệm và
2 người kia là
thành viên của
Ủy ban Trọng tài
- Giám định.
Không một ủy
viên nào khác
của ban giám
khảo ngoài
những người
nói trên được
ngồi vào bàn
Giám khảo trong
buổi đấu. bảng
phân công Ban
giám khảo của
mỗi buổi đấu
được Chủ tịch
AIBA (nếu ông
ta vắng mặt thì
đại diện được
chỉ định) sắp
xếp trước khi
bắt đầu buổi
đấu. Các ủy viên
muốn thay đổi vị
trí trong bảng
phân công phải
được Chủ tịch
hay người đại
diện cho phép.
Tất cả các ủy
viên của Hội
đồng chấp hành
sẽ làm nhiệm vụ
Ban giám khảo
trong trận đấu
chung kết. Các
ủy viên của Hội
đồng Chấp hành
AIBA trong danh
sách Trọng tài -
Giám định và các
ủy viên của ban
Trọng tài - Giám
định đều có
quyền bỏ phiếu.
12.2. Nhiệm vụ:
12.2.1. Mỗi
thành viên
trong Ban giám
khảo ghi lại
điểm của VĐv
mà họ có được
trong từng trận
đấu và các điểm
này có thể được
đối chiếu với
điểm của các
Giám định đang
làm nhiệm vụ các
trận này.
12.2.2. Ban giám
khảo tiến hành
kiểm tra phiếu
điểm của 5 Giám
định để đảm bảo
rằng (a) các
điểm đã được
cộng là chính
xác (b) tên các
VĐV được ghi
chính xác (c)
VĐV thắng cuộc
được chỉ định
(d) các phiếu
điểm đã được
ký tên; nghĩa là
Ban giám khảo
phải kiểm tra
các phiếu điểm
hay bảng chấm
điểm do máy
chấm điểm điện
tử ghi lại. Chủ
tịch Ban giám
khảo hoặc Giám
khảo đang làm
nhiệm vụ sẽ
thông báo tên
VĐV được chỉ
định thắng cuộc
do được đa số
của 5 phiếu
chấm điểm hoặc
do kết quả trên
màn hình của
máy chấm điểm
diện tử.
12.2.3. Ban giám
khảo sẽ họp vào
sáng hôm sau
để xem xét hoạt
động của Trọng
tài và Giám định
ngày hôm trước
và sẽ có khuyến
cáo với Hội đồng
Chấp hành về
các Trọng tài -
Giám định mà
theo họ chưa
hoàn thành
nhiệm vụ. Ban
giám định của
các trận đấu
hiện diện tại
buổi họp để báo
cáo việc làm của
họ ngày hôm
trước.
12.2.4. Ban giám
khảo sẽ thông
báo với Hội
đồng chấp hành
bằng văn bản,
các Trọng tài -
Giám định mà
theo họ không
áp dụng hữu
hiệu Luật lệ của
AIBA hoặc
không chấm
điểm chính xác.
12.2.5. Ban giám
khảo sẽ đệ trình
lên Hội đồng
Chấp hành AIBA,
Hội đồng Chấp
hành của Liên
đoàn Châu lục,
văn phòng Châu
lục các thay đổi
về danh sách
Trọng tài - Giám
định mà họ thấy
cần thiết.
12.2.6. Ban giám
khảo sẽ lưu ý
Hội đồng Chấp
hành về những
Trọng tài - Giám
định đã được
chỉ định làm
nhiệm vụ mà lại
vắng mặt không
làm nhiệm vụ và
không báo cáo
cho Tổng thư ký
về lý do chính
đáng của sự
vắng mặt này.
12.2.7. Nếu một
viên chức được
chỉ định làm
nhiệm vụ vắng
mặt, Ban giám
khảo có quyền
chọn lựa để
thay thế bằng
một viên chức
tương đương
trong danh sách
các viên chức
được chọn lựa
và phải báo cáo
cho Hội đồng
Chấp hành hay
văn phòng Châu
lục có liên quan
ngay khi có thể
được về sự
thay đổi này.
12.2.8. Nếu một
trận đấu có
nhiều tình
huống phức tạp
và không diễn ra
bình thường mà
Trọng tài không
có biện pháp
hữu hiệu, Ban
giám khảo có
thể dừng trận
đấu cho tới khi
giải quyết được
sự cố.
12.2.9. Ban giám
khảo có thể đưa
ra những biện
pháp cần thiết
tức thời khi có
các sự cố tại các
trận đấu.
12.2.10. Ban
giám khảo sẽ
tham vấn Ủy
ban Trọng tài -
Giám định về các
quyết định hoặc
khuyến cáo mà
họ đưa ra.
12.2.11. Khi một
VĐV có hành
động vi phạm
Luật lệ một cách
nghiêm trọng và
có ý đi ngược
với tinh thần
thể thao, Ban
giám khảo có
quyền kiến nghị
Hội đồng Chấp
hành và tuyên
bố kỷ luật VĐV
đó không được
thi đấu trong
một thời gian
nhất định và Hội
đồng Chấp hành
có thể tước bỏ
huy chương
hoặc phần
thưởng mà VĐV
đó nhận được.
12.2.12. Các
thành viên
trong Ban giám
khảo không
được làm nhiệm
vụ nếu trong
trận đấu có VĐV
là người có cùng
quốc gia với
thành viên
trong Ban giám
khảo.
12.3. Bác bỏ
quyết định của
Trọng tài và
Giám định:
Quyết định của
một Trọng tài
hay Giám định có
thể bị Ban giám
khảo bác bỏ
trong trường
hợp:
12.3.1. Khi
Trọng tài có một
quyết định rõ
ràng ngược với
các Chương,
Điều trong Luật
lệ AIBA (Ban
giám khảo có
thể sử dụng
bằng việc ghi
hình trận đấu).
12.3.2. Khi thấy
rõ ràng Giám
định đã có sự
lầm lẫn trong
phiếu điểm của
họ đưa đến
quyết định sai
lầm.
12.4. Khiếu nại:
Trưởng đoàn có
thể khiếu nại lên
Ban giám khảo
và phí khiếu nại
là 100 USD,
không chậm hơn
30 phút sau khi
kết thúc trận
đấu. Nếu Ban
giám khảo đồng
ý xem xét giải
quyết khiếu nại,
các hành động
cần thiết sẽ
được thực hiện.
Nếu khiếu nại
đúng, phí khiếu
nại sẽ được
hoàn trả.
12.5. Nếu là
thành viên Ban
giám khảo thì
không được làm
Trọng tài, Giám
định tại các giải
thi đấu đó.
12.6. Trung lập:
Tại các cuộc thi
đấu quốc tế, các
thành viên Ban
giám khảo phải
là người từ
nước khác đến.
ĐIỀU 13: TRỌNG
TÀI
13.1. Điều quan
tâm chủ yếu:
Quan tâm đến
VĐV là mối quan
tâm chủ yếu của
trọng tài.
13.2. Nhiệm vụ:
Trọng tài điều
hành võ đài phải
mặc quần trắng,
áo trắng, giày
màu sáng không
có gót. Có thể
mang nơ đen
trên cổ áo. Ở các
nước nhiệt đới,
nơi có thể được
miễn đeo khi Chủ
tịch Ban giám
khảo hoặc Chủ
tịch ban Trọng
tài - Giám định
đồng ý. Trọng
tài có thể sử
dụng găng tay
mỏng khi làm
việc. Trọng tài
phải: 13.2.1. Theo dõi
xem Luật lệ và
tinh thần thi
đấu FAIR PLAY
có được thực
hiện nghiêm túc
không.
13.2.2. Duy trì
việc kiểm soát
trận đấu trong
tất cả các giai
đoạn của trận
đấu.
13.2.3. Ngăn cản
một VĐV yếu
hơn tránh các
đòn thái qua
không cần thiết.
13.2.4. Kiểm tra
găng và trang
phục VĐV.
13.2.5. Sử dụng
03 khẩu lệnh
sau:
13.2.5.1.
"STOP" khi ra
lệnh cho VĐV
ngừng đấu .
13.2.5.2. "BOX"
khi ra lệnh thi
đấu.
13.2.5.3.
"BREAK" khi 2
VĐV ôm chặt
nhau, ra lệnh 2
VĐV dang ra và
bước lùi trước
khi tiếp tục thi
đấu.
13.2.6. Bằng dấu
hiệu và cử chỉ
thích hợp, dễ
hiểu để chỉ cho
VĐV thấy họ vi
phạm Luật lệ.
13.2.7. Sau trận
đấu, thu và kiểm
tra phiếu điểm
của 5 giám định
nộp cho Chủ tịch
Ban Giám khảo
hoặc cho phát
thanh viên nếu
không có Chủ
tịch Ban Giám
khảo.
13.2.8. Trọng tài
không chỉ định
VĐV thắng cuộc
bằng cách giơ
cao tay VĐV hay
bằng một cách
nào khác trước
khi phát thanh
viên công bố kết
quả chính thức,
lúc đó trọng tài
giơ cao tay của
VĐV.
13.2.9. Khi trọng
tài truất quyền
thi đấu của một
VĐV hoặc dừng
trận đấu phải
thông báo cho
Chủ tịch Ủy ban
Giám khảo tên
VĐV bị truất
quyền hoặc lý
do dừng trận
đấu để Chủ tịch
Ban Giám khảo
chỉ thị cho phát
thanh viên công
bố quyết định
một cách chnhs
xác cho công
chúng.
13.3. Quyền lực
của trọng tài:
Trọng tài có
quyền:
13.3.1. Kết thúc
trận đấu bất cứ
lúc nào nếu
trọng tài cân
nhắc thấy trận
đấu chỉ thiên về
một phía VĐV,
không tương
xứng.
13.3.2. Chấm dứt
trận đấu bất cứ
lúc nào nếu một
VĐV bị một vết
thương mà
trọng tài thấy
không thể tiếp
tục thi đấu
được.
13.3.3. Kết thúc
trận đấu bất cứ
lúc nào nếu cân
nhắc thấy hia
VĐV thi đấu một
cách không
trung thực,
trọng tài có thể
truất quyền một
hoặc cả hai VĐV.
13.3.4. Nhắc nhở
một VĐV hoặc
dừng trận đấu
để cảnh cáo một
VĐV có lỗi hoặc
vì một lý do nào
khác nhằm bảo
đảm tôn trọng
Luật lệ và Fair
Play.
13.3.5. Truất
quyền một VĐV
khi không chấp
hành ngay lệnh
của trọng tài
hoặc có thái độ
hung hăng,
khiêu khích
trọng tài vào
bất kỳ thời điểm
nào.
13.3.6. Truất
quyền săn sóc
viên khi phạm
luật và vì thế có
thể truất quyền
vì lỗi của săn sóc
viên nếu người
đó không chấp
hành lệnh của
trọng tài.
13.3.7. Truất
quyền VĐV mà
không cần phải
cảnh cáo trước.
13.3.8. Ngừng
đếm khi một
VĐV bị knock
down mà VĐV
kia không lùi về
góc trung lập
hoặc trì hoãn
thực hiện việc
đó.
13.3.9. Vận dụng
Luật lệ thi đấu
để có một quyết
định, một biện
pháp cần thiết
trong bất kỳ
trường hợp nào
của trận đấu mà
luật không quy
định.
13.4. Cảnh cáo:
nếu VĐV vi phạm
luật chưa đến
mức bị truất
quyền, trọng tài
ngừng trận đấu
để cảnh cáo VĐV
đó. Việc cảnh
cáo phải rõ ràng
sao cho VĐV có
thể hiểu được lý
do mắc lỗi.
Trọng tài ra hiệu
bằng tay (hay
một ký hiệu nào
đó) thật rõ cho
Giám định biết
Trọng tài đã
cảnh cáo VĐV
nào vì lỗi gì, sau
đó trọng tài mới
ra lệnh "BOX".
Nếu một VĐV bị
ba lần cảnh cáo
trong một trận
đấu, VĐV đó
đương nhiên bị
loại.
13.5. Nhắc nhở:
Trọng tài có
quyền nhắc nhở
một VĐV, đây là
một khuyến cáo
nhằm ngăn cản
việc vi phạm
Luật lệ nhưng
chưa đến mức
cảnh cáo. Trọng
tài có thể không
cho ngừng trận
đấu mà tranh
thủ thời cơ
thuận lợi trong
hiệp đấu để
nhắc nhở.
13.6. Nhận xét
về y tế: Trước
giải đấu, trọng
tài phải qua
kiểm tra y tế để
xác nhận có đầy
đủ thể lực để
hoàn thành
nhiệm vụ giao
phó. Mỗi con mắt
của trọng tài
phải đạt ít nhất
06 đi-ốp. Trong
khi điều hành
trận đấu, trọng
tài không được
mang kính
nhưng nếu
mang kính áp
tròng (contact
lens) thì được
phép. Trọng tài
bắt buộc phải
tham dự buổi
họp trước khi
giải đấu được
chủ trì bởi Giám
định Y tế.
ĐIỀU 14: GIÁM
ĐỊNH
14.1. Trang
phục: Quần áo
màu trắng và có
thể mặc áo
khoác nếu được
phép.
14.2. Nhiệm vụ:
14.2.1. Giám
định xét đoán
độc lập các năng
lực của VĐV và
quyết định
người thắng
trên cơ sở luật
định.
14.2.2. Trong
trận đấu, Giám
định không
được nói
chuyện với VĐV,
các giám định
khác hoặc bất
kỳ ai ngoại trừ
trọng tài nhưng
phải trong
trường hợp cấp
thiết sau mỗi
hiệp đấu sẽ lưu
ý trọng tài
những điểm mà
trọng tài không
thấy như thái
độ của săn sóc
viên, dây đai bị
chùng v.v...
14.2.3. Số điểm
chấm cho VĐV do
Giám định ghi
trên phiếu điểm
ngay sau mỗi
hiệp đấu trừ khi
có máy chấm
điểm điện tử.
14.2.4. Trừ khi
có sử dụng máy
chấm điểm điện
tử còn sau mỗi
trận đấu, Giám
định cộng số
điểm trên phiếu
điểm, chỉ định
VĐV thắng cuộc,
ký vào phiếu
điểm. Các điều
này được công
bố cho công
chúng được
biết.
14.2.5. Giám
định không
được rời khỏi vị
trí trước khi
quyết định
thắng thua
được công bố.
ĐIỀU 15: TRỌNG
TÀI BẤM GIỜ
15.1. Nhiệm vụ:
15.1.1. Nhiệm vụ
chủ yếu của
trọng tài bấm
giờ là điều chỉnh
số lượng thời
gain của mỗi
hiệp đấu, lúc
ngừng trận đấu
và thời gian
gnhỉ giữa các
hiệp đấu (là tròn
1 phút).
15.1.2. Năm giây
trước khi bắt
đầu một hiệp
đấu, trọng tài
bấm giờ ra khẩu
lệnh "Dọn sạch
đài đấu" hoặc
"Săn sóc viên ra
ngoài".
15.1.3. Công bố
bắt đầu và chấm
dứt mỗi hiệp
ngay trước khi
bắt đầu hiệp đó.
15.1.4. Thông
báo số thứ tự
của mỗi hiệp
ngay trước khi
bắt đầu hiệp đó.
15.1.5. Nếu
trọng tài cho
ngừng trận đấu
thì phải trừ thời
giam ngừng đó.
15.1.6. Xác định
thời gian bằng
đồng hồ đeo tay
hoặc để bàn.
15.1.7. Khi có
một VĐV bị nằm
sàn (knock
down), báo hiều
cho trọng tài
từng giây trôi
qua khi trọng tài
đang đếm.
15.1.8. Nếu một
VĐV đang nằm
sàn và trọng tài
đếm, đúng lúc
đó thời gian
hiệp đấu đã hết
thì trọng tài
bấm giờ không
được gõ cồng
chấm dứt hiệp
đấu mà phải chờ
cho trọng tài ra
lệnh "BOX" mới
được gõ cồng
chấm dứt hiệp
đấu. Tuy nhiên
điều này không
được áp dụng ở
hiệp cuối cùng
của các trận
chung kết trong
Đại hội Olympic,
vô địch thế giới,
tranh giải thế
giới, giải luân
lưu của AIBA, vô
địch châu lục và
các cuộc thi đấu
quốc tế khác.
15.2. Vị trí: Chỗ
ngồi của trọng
tài thời gian ở
gần võ đài.
ĐIỀU 16: CÁC
QUYẾT ĐỊNH
16.1. Các loại
quyết định:
16.1.1. Thắng
điểm: Sau mỗi
trận đấu, VĐV
nào được đa số
giám định chấm
thắng sẽ được
tuyên bố là
người thắng
cuộc. Nếu cả hai
VĐV bị thương
hoặc đều đo ván
(K.O) cùng một
lúc và không
tiếp túc đấu
được nữa, giám
định sẽ cộng số
điểm của từng
VĐV tới lúc
ngừng đấu và
VĐV nào được
nhiều điểm hơn
vào lúc đó sẽ là
người thắng
cuộc.
16.1.2. Thắng vì
bỏ cuộc: Nếu
một VĐV tự
nguyện bỏ cuộc
do chấn thương
hay vì một lý do
nào khác hoặc
không tiếp tcụ
thi đấu sau giờ
nghỉ giữa hai
hiệp, thì đối
phương là
người thắng
cuộc.
16.1.3. Thắng do
trọng tài cho
ngừng trận đấu:
16.1.3.1. Không
cân sức: RSC là
thuật ngữ dùng
để chỉ ngừng
trận đấu khi một
VĐV không cân
sức hoặc không
có khả năng đấu
tiếp. Nếu một
VĐV theo nhận
định của trọng
tài là không cân
sức hoặc bị
nhiều đòn thái
quá, trận đấu sẽ
được ngừng và
đối phương là
người thắng
cuộc.
16.1.3.2. Chấn
thương:
a. Theo trọng
tài, một VĐV
không thể tiếp
tục thi đấu
được do chấn
thương hoặc
thể lực yếu kém,
trận đấu sẽ
được ngừng và
đối phương là
người thắng
cuộc. Quyền ra
quyết định này
là của trọng tài
sau khi tham
khảo ý kiến của
bác sĩ và khi đã
hỏi ý kiến của
bác sĩ rồi thì
trọng tài phải
tuân thủ lời
khuyên đó.
Trọng tài cũng
phải xem xét
vết thương của
VĐv kia trước
khi có quyết
định. viên chức
Y tế của trận
đấu có quyền đề
nghị ngừng trận
đấu nếu họ thấy
cần thiết vì lý do
Y tế. Trước đó,
họ phải thông
báo cho Giám
sát trưởng để
ông này thông
báo cho trọng
tài. Thời gian
ngừng trận đấu
tối đa là một
phút để viên
chức y tế khám
xem VĐV còn đủ
điều kiện thi
đấu hay không
(viên chức y tế
bao gồm Chủ tịch
Giám định Y tế
hoặc bác sĩ chịu
trách nhiệm y tế
cho một trận
đấu).
b. Nếu có chấn
thương và trận
đấu đã diễn ra
qua hiệp một, số
điểm cho tới khi
bị chấn thương
của cac sVĐv sẽ
được cộng lại và
ai có nhiều điểm
hơn là người
thắng. Trong
cuộc thi đấu vô
địch, VĐV không
bị chấn thương
sẽ là người
thắng. Trong
giải thi đấu giữa
hai nước, một
chấn thương
như vậy tại hiệp
một có thể dẫn
tới quyết định
hủy bỏ trận đấu.
c. Khi trọng tài
mời bác sĩ lên võ
đài đẻ khám cho
VĐV thì chỉ hai
người này được
ở trên võ đài,
các săn sóc viên
không được lại
gần võ đài.
d. Nếu giám sát
trưởng sau khi
hội ý với các
thành viên
trong Ban Giám
sát tin tưởng
rằng máy chấm
điểm điện tử với
15 điểm cách
biệt giữa hai
VĐV, trận đấu có
thể chấm dứt để
tránh cho một
VĐV bị những
đòn không cần
thiết. Ông ta có
quyền dừng
trận đấu bằng
cách gõ cồng
hay các phương
tiện khác, hỏi ý
kiến trọng tài và
theo kết quả đó
tuyên bố "Góc X
là người chiến
thắng bởi RSC".
16.1.4. Thắng do
truất quyền:
Nếu một VĐV bị
truất quyền,
VĐV kia là người
thắng cuộc. Nếu
cả hai VĐV bị
truất quyền,
quýet định sẽ
được công bố.
VĐV bị truất
quyền không
được bất kỳ giải
thưởng, huy
chương, cúp,
xếp hạng của
toàn bộ giải
đấu. Trong
trường hợp
ngoại lệ Hội
đồng chấp hành
(hoặc không có
Hội đồng chấp
hành thì Giám
Sát trưởng hoặc
Ban Giám khảo)
có thể xin xét
ngoại lọê,
nhưng các
quyết định phải
được thông qua
bởi Hội đồng
chấp hành.
16.1.5. Thắng
cuộc do đo ván
(K.O): Nếu một
VĐV bị nằm do
một cú đấm và
không đứng dậy
để thi đấu tiếp.
Sau 10 giây thì
đối phương
được tuyên bố
thắng cuộc do
"đo ván".
16.1.6. Thắng
bằng RSC-H: Một
VĐV bị những cú
đấm nặng vào
đầu không tiếo
tục thi đấu
được thì đối
phương được
tuyên bố thắng
cuộc.
16.1.7. Không có
trận đấu: Trọng
tài kết thúc trận
đấu không phỉa
vì trách nhiệm
của các VĐV và
trọng tài mà vì
cá hoàn cảnh
khách quan như
võ đài bị hư
hỏng, hệ thống
điện gặp sự cố,
thời tiết đặc
biệt v.v...Trong
những trường
hợp đó, trận
đấu được tuyên
bố là "không có
trận đấu" và
trong giải vô
địch, Ban Giám
khảo sẽ quyết
định không
hành động tiếp
theo.
16.1.8. Thắng
cuộc do không
có đối thủ: Khi
một VĐV đã có
mắt ở võ đài với
trang phục đầy
đủ để thi đấu
mà đối thủ kia
không xuất hiện
dù loa phóng
thanh đã gọi tên
rồi chuông reo
và ba phút trôi
qua, trọng tài
chỉ định VĐV có
mặt tại võ đài là
người thắng
cuộc. Trước
tiên, trọng tài
đề nghị các giám
định ghi đầy đủ
vào phiếu điểm,
thu các phiếu
điểm đó, sau đó
dẫn VĐV ra giữa
đài và sau khi
quyết định
được công bố,
giơ tay VĐV là
người thắng
cuộc.
16.1.9. Hòa:
Trận đấu giao
hữu giữa hai Câu
lạc bộ của hai
nước có thể
chấp nhận hòa
khi đa số các
giám định cho
điểm bằng nhau
hoặc có chấn
thương ngay
trong hiệp đầu
của trận đấu.
16.1.10. Những
sự kiện xảy ra
trong đài đấu
nằm ngoài tầm
kiểm soát của
trọng tài.
16.1.10.1. Nếu
có sự cố xảy ra
không cho phép
trận đấu được
tiếp tục trong
vòng một phút
sau khi chuông
reo để bắt đầu
hiệp 1 hay hiệp
2 (ví dụ như mất
điện), trận đấu
sẽ được dừng
lại và VĐV sẽ thi
đấu tiếp hai
hiệp cuối vào
thời điểm thích
hợp của buổi thi
đấu.
16.1.10.2. Nếu
sự cố xảy ra ở
hiệp thứ tư của
trận đấu, trận
đấu sẽ được kết
thúc và các giám
định được yêu
cầu đưa ra
quyết định xem
VĐV nào là
người chiến
thắng.
16.1.10.3. Nếu
sự cố xảy ra
trong ba trận
đấu cuối cùng
của buổi thi đấu,
VĐV sẽ được thi
đấu vào trận
đầu tiên của
chương trình thi
đấu kế tiếp, VĐV
sẽ được cân và
kiểm tra y tế
một lần nữa
trước trận đấu.
ĐIỀU 17: CHẤM
ĐIỂM
Các chỉ dẫn sau
đây cần được
chú ý:
17.1. Liên quan
đến đòn đánh:
17.1.1. Đòn
đánh được tính
điểm:
Trong mỗi hiệp,
Giám định sẽ cho
điểm căn cứ vào
các đòn đấm của
VĐV. Để cho
điểm mỗi đòn
đánh, đòn đó
không bị ngăn
chặn hay bảo vệ
và phải trúng
đích với diện
tích tiếp xúc
hợp lệ của găng,
đòn đó phải
trúng đích vào
phần trước của
đầu hay thân
thể kể từ thắt
lưng trở lên. Các
đòn tạt ngang
(Swings) đánh
đúng như trên
cũng được tính
điểm. Giá trị của
các đòn đánh
giáp thân sẽ
được đánh giá
vào cuối của lần
giáp thân giữa
VĐV và tùy
thuộc vào số
đòn đánh chiếm
đa số của VĐV
đó.
17.1.2. Đòn
đánh không ghi
điểm.
17.1.2.1. Cú
đánh vi phạm
luật hoặc,
17.1.2.2. Đánh
bằng cạnh, mắt
sau của găng,
đánh mở găng
hoặc bất kỳ
phần nào khác
ngoài diện tích
găng che cảu các
khớp của năm
ngón tay (diện
tích tiếp xúc
hợp lệ).
17.1.2.3. Đòn
đánh bằng cánh
tay.
17.1.2.4. Chạm
vào cơ thể mà
không có lực của
vai hay cơ thể.
17.2. Về việc vi
phạm luật:
17.2.1. Cảnh cáo
của trọng tài:
Nếu trọng tài
cảnh cáo một
VĐV thì giám
định có thể cho
điểm VĐV kia.
Khi giám định đã
quyết định cho
VĐV một điểm,
vì đối thủ đã vi
phạm luật và
trọng tài đã
cảnh cáo, thì
giám định sẽ ghi
chữ "U" vào cột
ghi điểm. Nếu
giám định không
nhất trí với
trọng tài thì ghi
chữ "X" và lý do
vắn tắt mà
trọng tài đã
cảnh cáo.
17.2.2. Các lỗi
khác: Trong mỗi
một hiệp, Giám
định sẽ xác định
mức độ của lỗi vi
phạm mà trọng
tài không thấy
và không cảnh
cáo, ông ta sẽ
ghi chữ "J" vào
cột ghi điểm và
lý do cảnh cáo.
17.3. Liên quan
đến cách cho
điểm:
17.3.1. Sau mỗi
hiệp: Mỗi hiệp
được cho điểm
là 20 điểm,
không cho điểm
với phần số lẻ.
Sau mỗi hiệp,
VĐV thắng được
cho 20 điểm và
VĐV kia được
điểm ít hơn một
cách tương
xứng, trường
hợp ngang bằng
mỗi VĐV được
20 điểm.
17.3.2. Xác định
các điểm: Chấm
điểm theo các
nguyên tắc sau:
Ba đòn đánh
chính xác hợp lệ
được 1 điểm, bị
trọng tài giám
định cảnh cáo
đối phương
được 1 điểm.
Nếu số lượng
đòn khác 3, 6, 9,
12 v.v... thì bảng
sau được áp
dụng:
Số đòn
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 13 14
v.v
Điểm
0 1 1 1 2 2 2 3 3 3
4 4 4 5 v.v
17.3.3. Kết thúc
trận đấu: Sau
khi ghi điểm của
từng hiệp như
trên, giám định
thấy các VĐV có
số điểm bằng
nhau, giám định
sẽ quyết định
VĐV nào thắng
tùy thuộc vào:
17.3.3.1. Số lần
tấn công nhiều
hơn, kỹ thuật
tốt hơn. Nếu
vẫn bằng nhau
thì:
17.3.3.2. Phòng
thủ tốt hơn
(khóa, tránh né,
đỡ đòn v.v...) và
đã vô hiệu hóa
hoặc làm kém
hiệu quả các đòn
đánh của đối
phương.
17.3.3.3. Tất cả
các cuộc thi đấu
đều phải chỉ
định được VĐV
thắng cuộc còn
trong các cuộc
đấu hữu nghị
giữa 02 nước có
thể có trận hòa.
17.3.4. Nằm sàn:
Không một điểm
nào được ghi
cho VĐV bị nằm
sàn.
17.4. Sử dụng
máy tính điện
tử:
17.4.1. Nếu sử
dụng máy tính
điện tử, sẽ áp
dụng các quy tắc
sau:
17.4.1.1. Quyết
định cho điểm
được thiết lập,
giám định ấn các
nút được
hướng dẫn để
cho phép VĐV có
những đòn đánh
chính xác, hợp
lệ.
17.4.1.2. Về cơ
bản, những đòn
đánh chính xác
và các thông tin
khác được ghi
lại và tính toán
một cách tự
động bởi máy
chấm điểm. VĐV
sẽ được điểm
nếu máy nhận
được ít nhất 3
trong 5 giám
định ấn nút cho
điểm VĐV đó.
17.4.1.3. Máy
tính điểm điện
tử sẽ trừ 2 điểm
cho VĐV bị cảnh
cáo (tương
đương với 2
điểm của 2 đòn
đấm chính xác
cho hợp lệ).
17.4.1.4. VĐV
thấy điểm được
xác định trên cơ
sở tổng các đòn
chính xác đếm
được trong các
hiệp đấu, VĐV có
nhiều đòn hơn
sẽ là người
thắng cuộc.
17.4.1.5. VĐV sẽ
được điểm nếu
đòn đánh hợp lệ
ít nhất 3 trong 5
giám định ấn nút
ch điểm. Có
những đòn đánh
không đủ 3 Giám
định ấn nút cho
điểm mà ví dụ
như chỉ có 2
giám định ấn nút
cho điểm sẽ
cũng được máy
chấm điểm lưu
giữ lại. Đây là cơ
sở để xác định
VĐV nào thắng
nếu cuối trận
đấu số điểm của
2 VĐV được máy
chấm là bằng
nhau, dựa vào
thông tin trên
được máy chấm
điểm lưu giữ lại,
người ta tính
được VĐV nào
có nhiều đòn
đánh hợp lệ
hơn. Nếu 2 VĐV
vẫn bằng nhau,
5 giám định sẽ
quyết định VĐV
thắng cuộc dựa
vào Điều 17.3.3
bằng cách nhấn
nút bấm thích
hợp.
17.4.2. Sử dụng
máy tính điểm
điện tử không
cần dùng phiếu
điểm, toàn bộ
thông số cần
thiết được máy
tính ghi nhận và
sau trận đâu sẽ
tự động in ra.
17.4.3. Trường
hợp máy tính
điểm điện tử có
trục trặc, cần
tiến hành:
17.4.3.1. Giám
sát trưởng ra
lệnh ngừng trận
đấu trong 1
phút, nếu trong
thời gian đó
máy chưa được
sửa song thì
trận đấu phải
được tiếp tục.
Vận dụng Điều
12.2.1, quyết
định của 5 giám
khảo sẽ được
xem là chính
thức.
17.4.3.2. Nếu
máy tính điện
tử không thể
sửa được, Ban
giám sát có
quyền áp dụng
Điều 17.1; 17.2;
17.3 cho các
trận đấu tiếp
theo.
17.4.4. Trong
các giải vô địch
của AIBA, giải
Olympic, máy
chấm điểm điện
tử sẽ được một
viên chức do
AIBA chỉ định
điều khiển.
ĐIỀU 18: CÁC LỖI
18.1. Nhắc nhở,
cảnh cáo, truất
quyền: Một VĐV
không chấp
hành lệnh của
trọng tài, vi
phạm luật, thi
đấu thiếu tinh
thần thể thao
hoặc phạm lỗi
theo nhận xét
của trọng tài có
thể bị nhắc nhở,
cảnh cao hoặc
truất quyền mà
không cần báo
trước. Trọng tài
không cần
ngừng trận đấu
vẫn có thể nhắc
nhở VĐV. Nếu
định cảnh cáo 1
VĐV, trọng tài
cho ngừng trận
đấu chỉ cho VĐV
lỗi vi phạm sau
đó dùng tay chỉ
VĐV vi phạm cho
từng giám định
biết. Trọng tài
có thể cảnh cáo
vì một lỗi như
giữ tay thì sau
đó không được
nhắc nhở với lỗi
cùng loại. Ba lần
nhắc nhở cùng 1
loại lỗi là một
cảnh cáo. Trong
một trận đâu,
VĐv nếu bị cảnh
cao tới lần thứ
ba thì đương
nhiên bị truất
quyền.
18.2. Các loại lỗi:
18.2.1. Đánh
dưới thắt lưng,
giữ tay, ngáng
chân, đá bằng
chân, đá bằng
chân hoặc đầu
gối.
18.2.2. Đánh
bằng đầu, vai,
cánh tay, khuỷu
tay, bóp cổ đối
phương. Dùng
cánh tay hoặc
khuỷu tay ép
vào mặt đối
phương hoặc
đẩy ngửa đầu
đối phương ra
phía sau ngoài
dây võ đài.
18.2.3. Đánh mở
găng, hoặc sống
găng, cổ tay
hoặc mu bàn
tay.
18.2.4. Đánh
vào lưng đối
thủ, đặc biệt cú
đánh vào gáy,
phía sau đầu
hoặc vào cùng
thận.
18.2.5. Ra các
đòn xoay tròn.
18.2.6. Vừa giữ
dây đài vừa
đánh hợc sử
dụng dây đài
một cách thiếu
tinh thần thể
thao để đánh
đối phương.
18.2.7. Nằm đè
lên đối phương,
đánh vật hoặc
ném đối
phương.
18.2.8. Tấn công
đối phương khi
đối phương bị
ngã hay đang
đứng dậy.
18.2.9. Ôm
người.
18.2.10. Vừa ôm
vừa đánh hay
vừa kéo vừa
đánh.
18.2.11. Khóa
hoặc kẹp tay,
đầu của đối
phương hoặc
luồn tay mình
dưới tay đối
phương.
18.2.12. Đầu cúi
thấp dưới thắt
lưng tạo nguy
hiểm cho đối
phương.
18.2.13. Chấp
nhận sự phòng
thủ thụ động
hoàn toàn bằng
cách che hai tay,
ngả người hoặc
xoay người để
tránh đòn.
18.2.14. Đưa ra
những tiếng
động, tiếng la
không cần thiết,
khiêu khích gây
gổ trong hiệp
đấu.
18.2.15. Không
lùi lại một bước
khi có lệnh
"BREAK".
18.2.16. Trọng
tài ra lệnh
"BREAK", không
lùi lại một bước
mà còn tìm cách
đánh đối
phương.
18.2.17. Tấn
công hoặc tìm
cách gây sự với
trọng tài vào
bất kỳ lúc nào.
18.2.18. Nhả bọc
răng.
18.2.19. Dùng
tay che chắn để
đối phương
không nhìn thấy
gì.
18.3. Săn sóc
viên: Mỗi VĐV
phải chịu trách
nhiệm về các
hành vi của săn
sóc viên của
mình.
18.4. Trọng tài
tham vấn các
giám định: Nếu
trọng tài nghĩ
rằng đã có một
lỗi gì đó xảy ra
mà mình không
thấy, ông ta có
thể tham vấn
với các giám
định.
ĐIỀU 19: NẰM
SÀN
19.1. Định
nghĩa: Một vận
động viên được
coi như "nằm
sàn":
19.1.1. Nếu VĐV
đó chạm sàn
đấu bằng bất kỳ
bộ phận nào có
thể trừ hai chân
do một đòn
đánh hay 1 loạt
đòn đánh.
19.1.2. Nếu VĐV
đó gục xuống
dây căng võ đài
do 1 đòn đánh
hay 1 loạt đòn
đánh.
19.1.3. Nếu VĐV
đó rớt khỏi dây
đài hay một
phần cơ thể ra
ngoài dây đài do
đòn đánh hay 1
loạt