Yến Thanh Quyền
(Yan Qing Quan 燕
青拳), tên chính
xác là Mê Tung
nghệ (chữ Hán: 迷
蹤藝); bính âm
Hán ngữ:
Mízōngyì; dịch
nghĩa tiếng Anh
"Lost Track Skill"),
hay được biết
dưới tên Mê Tung
quyền (chữ Hán:
迷蹤拳; bính âm:
Mízōng quán; dịch
nghĩa tiếng Anh:
"Lost Track Fist")
có nguồn gốc từ
bài quyền Mê
Tông La Hán của
Thiếu Lâm Tung
Sơn Hà Nam (chữ
Hán: 迷蹤羅漢;
bính âm: Mízōng
Luóhàn.)
Yến Thanh quyền
còn được gọi là
Nghê Tung quyền,
Mật Tung quyền,
Mê Tung nghệ
(Mật Tông là một
dòng tu kín trong
Phật giáo ở Trung
Hoa và Miến Điện),
Mê Lộ quyền
(đường quyền bí
hiểm), Mê Tung
nghệ (vết chân bí
hiểm) mượn sự
tích ăn trộm đào
tường khoét vách
không để lại dấu
vết của nhân vật
Yến Thanh trong
Thủy Hử truyền
lại. Mê (迷) có
nghĩa là biến ảo
(không để lại dấu
vết), tông hay
tung (蹤) có nghĩa
là dấu vết, dấu
chân, tạm dịch
những bước chân
kỳ ảo.
Nguồn gốc
Gọi là Yến Thanh
quyền là vì môn
quyền này nổi
tiếng từ một
người anh hùng
dân gian trong
cuộc khởi nghĩa
của nông dân thời
Bắc Tống tên là
Yến Thanh, sau
này Thi Nại Am đã
tiểu thuyết hóa
Yến Thanh thành
một trong 108 anh
hùng Lương Sơn
Bạc trong bộ tiểu
thuyết anh hùng
Thủy Hử.
Còn một thuyết
khác kể lại rằng
các nhà sư và
tăng nhân ở Thiếu
Lâm Tung Sơn Hà
Nam luôn luôn phải
đối phó bọn giặc
khỉ cụt đuôi vào
chùa ăn trộm và
ra đi không để lại
dấu vết khiến họ
phải canh phòng
và rình mò truy
đuổi nhưng không
bao giờ tìm được
hang ổ của chúng
vì chỉ đuổi được
một đoạn đường
là chúng mất dạng
trong các khe núi.
Điều này đã gợi ý
kích thích sáng
tác ở các nhà sư
Thiếu Lâm sáng
tạo ra một loại
quyền thuật kỳ lạ
này.
Ở ngoài đời đã có
thuyết "Đông là
Yến Thanh (Chỉ
vùng Sơn Đông),
Tây là Nghê Tông
(chỉ vùng Hà Nam)
". Hoắc Nguyên
Giáp nhà võ học
nổi tiếng
(1869-1910)
người huyện Tĩnh
Hải (Hà Bắc) luyện
lại gọi là Mê Tông
nghệ, Trương
Diệu Đình ở
Thương Châu (Hà
Bắc) truyền môn
này gọi là Yến
Thanh quyền.
Ở Thanh Châu
(Sơn Đông) lại gọi
là Yến Thanh
Thần Chùy, một
dải Thiên Tân
truyền môn này
lại gọi là Yến
Thanh Thập Bát
Phiên (18 lần lật
của Yến Thanh).
Sau này Hoắc
Nguyên Giáp đã
dùng Mê Tung
quyền đánh bại
tất cả các võ sĩ
Trung Hoa và
phương Tây và
lập ra Tinh Võ Thể
Dục Hội (Chin Wu
Athletic
Association) tại
Thượng Hải.
Đặc điểm kỹ pháp
Đặc điểm của Yến
Thanh quyền là
nhẹ nhàng mau lẹ,
thi triển phiêu dật
(nhàn hạ thoải
mái), trọng công
phu trọng khéo
léo, đủ cả cứng
mềm. Về thủ pháp
thì chủ yếu là
móc, ôm, ngắt,
vuốt, bọc, vồ, gác,
ép, chú trọng kỹ
pháp cầm nã.
Về thoái pháp (bộ
pháp: tấn pháp -
cước pháp) chủ
yếu là đá, điểm,
móc, treo, quấn,
quét, cắt, hất cả
đến khều âm
cước xé giữa hai
chân, liên hoàn
dậm, tránh chân
(đóa tử cước)
biểu thị yêu cầu
tập trung vào một
điểm mà đề cập
tới cả tám
phương.
Môn quyền này về
cơ bản được tích
hợp giữa phong
cách của các loại
quyền thuật Bắc
Thiếu Lâm pha
trộn với phong
cách quyền thuật
của Đạo gia như
Nội gia quyền
(hiện nay có nhiều
người lầm lẫn Thái
Cực quyền là Nội
gia quyền, sẽ
được bàn sau) và
Bát Quái chưởng.
Về thân pháp thì
lấy giấu, né, vặn,
lắc làm chính
(tàng, thiểm, ninh,
đẩu), còn bộ pháp
thì lấy nhảy dọc,
bắt lén (tung,
khiêu, thâu, móc)
làm chính. Coi
trọng đòn chân,
trừ các phép
thường dời, đè,
đá, dựa ra còn có
đá bao, đá cọc gỗ
v.v.. Trong các bài
dùng khuỷu với
động tác chân và
vọt lật, trong thực
sự thì chú trọng
mượn thế thuận
sức, ra (đòn) lúc
không để ý. Trong
quyền quyết nói:
"Thấy cứng rụt
tay về, về tay vào
tay lén, tay lén
mà ngắt tay, ngắt
tay vào ôm tay"
"Kiến cương nhi
hồi thủ
hồi thủ nhập thâu
thủ
thâu thủ nhi thái
thủ
thâu thủ nhi thái
thủ"
Thế quyền tuy
nghiêm ngặt mà
vẫn chuyên chú
tính uyển chuyển
của Bắc Thiếu Lâm
và phong thái tiêu
diêu nhàn nhã của
Đạo gia.
Về bài bản có Mật
Tông mẫu quyền
(mẹ Mật Tông),
luyện thủ quyền,
đại tiểu ngũ hổ
quyền, Mật tông
trường quyền,
Yến thanh quyền,
Yến Thanh giá,
Yến thanh thần
chùy, Yến thanh
phiên tử, Yến
Thanh chưởng,
tam bộ giá, bát dả
quyền, tứ lộ bôn
đả (chạy đánh
bốn đường) v.v...
Về khí giới thì có
Yến Thanh đao,
Yến Thanh quải,
Minh đường đao,
Thanh Long Kiếm,
Nhị Lang côn, Đối
với sách tán thủ
thì có Yến Thanh
tam đả, Yến thanh
thập đả, Yến
thanh thập tứ thủ,
Ngũ hoa miên
quyền (quyền
mềm như bông),
Bán tỵ phong
đoản đả (đánh
gần nửa tránh
gió), Lý ngoại
chiến (đánh trong
ngoài), Nghênh
diện đối (nghênh
mặt đón v.v...
Ngoài ra còn khinh
công, ngạnh công,
bảo kiện công (loại
công phu dưỡng
sinh