The Soda Pop
ĐẳngCấpMobie.Mobie.in
Trang ChủSms KuteGame Mobile
Cài đặt Opera Mini 7.0 để truy cập wap nhanh và Tiết Kiệm kb nhé!
Avatar Online - MXH Teen Đặc Biệt Ấn Tượng
iWin Online HD - Game Bài Chính Hiệu, Điện Thoại Không Thể Thiếu
Mobi Army Online - Gunny Mobile Bắn Súng Đình Đám Nhất 2014
Audition Mobile - Thăng Hoa Cảm Xúc
Khí Phách Anh Hùng - Game gMO Ấn Tượng Nhất Việt Nam
Thiên Tướng Giáng Hạ - Chiến Thuật Theo Lượt
Thiếu Lâm Tự
“Thiên hạ kungfu
xuất Thiếu Lâm”,
có lẽ không phải
chờ đến những
tiểu thuyết võ
hiệp của Kim Dung,
Cổ Long, Thiếu
Lâm Tự mới được
biết đến như là
một Thái Sơn Bắc
Đẩu của võ lâm
trung nguyên.
Trên thực tế,
kungfu Thiếu Lâm
chính là hình ảnh
đại diện của nền
võ học Trung Hoa,
là cơ sở cho võ
công của nhiều
môn phái khác, và
do đó cũng là
phần cơ bản nhất
tạo nên môn võ
Wushu mà người
Trung Quốc tự
hào đem ra giới
thiệu với thế giới
dưới tư cách một
phần tinh túy
nhất trong truyền
thống võ học của
mình.
Cùng với thời
gian, đặc biệt dưới
ảnh hưởng của
các tiểu thuyết,
phim ảnh võ hiệp,
kungfu Thiếu Lâm
Tự trong mắt
chúng ta ngày
càng nhuốm màu
sắc huyền bí và
kì ảo.
Nhưng điều thú vị
là ở chỗ, những gì
còn lại đến hôm
nay của võ học
Thiếu Lâm đủ để
chúng ta tin rằng
những điều
truyền tụng
không phải không
có cơ sở. Người
hâm mộ hẳn đều
hơn một lần tự
hỏi: Có thật là
dưới gầm trời
này, trong thế
giới thực tại này
vẫn tồn tại một
không gian võ học
cao minh, bí ẩn
của ngàn năm
trước? Và phải
chăng những bí
kíp Dịch cân kinh,
Tẩy tủy kinh... vẫn
nằm yên trong
Tàng Kinh các một
ngày nào đó sẽ lại
tái xuất giang hồ
và gây cơn sóng
gió, như chúng đã
từng gây ra trong
quá khứ? VTC
News xin trân
trọng đăng tải
loạt bài viết thú vị
về huyền thoại
của môn võ lừng
danh thế giới
này...
KÌ 1: TỪ ĐẠT MA
SƯ TỔ ĐẾN TRUNG
NGUYÊN THÁI SƠN
BẮC ĐẨU
Ở Trung Quốc hiện
nay có đến 10
ngôi chùa mang
danh Thiếu Lâm.
Tuy nhiên, Thiếu
Lâm được nhắc
đến trong tiểu
thuyết Kim Dung,
Cổ Long, cái nôi
của thiền tông và
võ thuật Trung
Hoa là Thiếu Lâm
Tung Sơn, thuộc
tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc ngày
nay, cách thủ đô
Bắc Kinh chừng
600km về phía
Nam. Chùa xây
dựng trong khu
rừng trên đỉnh núi
Thiếu Thất thuộc
dãy Tung Sơn,
nên được gọi là
“Thiếu Lâm”.
Tung Sơn thắng
địa
Dãy núi Tung Sơn.
Dãy núi Tung Sơn
là một trong Ngũ
Nhạc - một trong 5
dãy núi lớn và
danh tiếng nhất
Trung Hoa, nằm ở
phía Nam sông
Hoàng Hà và phía
Bắc sông Dương
Tử (Trường
Giang). Núi Thiếu
Thất cao chừng
860 trượng,
phong cảnh tao
nhã, địa thế thuận
tiện, chung quanh
núi được bao phủ
bởi rừng thiết
mộc, một loại cây
rắn chắc như sắt,
bền bỉ, quí báu
hiếm có, tương
truyền do Ðạt Ma
trồng ở Tung Sơn,
dùng làm binh khí
và vật dụng cho
chùa Thiếu Lâm.
Ðỉnh Thiếu Thất
bằng phẳng, rộng
rãi trên 5.000
trượng vuông, là
nơi tọa lạc của
ngôi chùa Thiếu
Lâm huyền thoại.
Gần Thiếu Thất
Sơn có Lộng
Nguyệt Hồ, sâu
khoảng bốn
trượng, nước
trong suốt, vào
những đêm trăng
sáng, đứng trên
đỉnh Thiếu Thất
nhìn xuống mặt
hồ giống như một
vầng trăng lớn. Hồ
là nơi tập luyện
"thủy công" cho
các môn đồ Thiếu
Lâm sau này.
Theo sử sách ghi
lại, vào đời Hán,
Minh Đế một hôm
mơ thấy vị thần
người tỏa ánh
vàng bay đi bay
lại trong cung, có
người nói là đức
Phật Tây phương,
vua bèn cho
người sang Tây
vực cầu Phật
pháp, mời về hai
vị cao tăng Ấn Độ
là Nhiếp Ma Đằng
và Trúc Pháp Lan,
lập chùa Bạch Mã
ở Lạc Dương để
hai người giảng
kinh. Đây là ngôi
chùa Phật giáo
đầu tiên trong lịch
sử Trung Quốc.
Sau hai người
muốn tìm chốn núi
cao rừng thẳm để
tu luyện, bèn xin
tìm nơi thanh
tĩnh lập chùa, và
đặt chân lên miền
đất phúc Tung
Sơn, xây dựng
Đông Đô Đại Pháp
Vương Tự.
Minh Đế sùng
Phật, quan lại
trong triều không
kể cao thấp đều
phải đến đây
nghe giảng kinh.
Tại đây, hai vị cao
tăng đã dịch xong
bộ Tứ thập nhị
chương kinh (Bộ
kinh 42 chương,
được Kim Dung mô
tả là đối tượng
truy tìm của cả võ
lâm và triều đình
trong cuốn tiểu
thuyết võ hiệp nổi
tiếng Lộc đình ký)
. Như vậy, hạt
giống Phật giáo từ
Tây phương bay
tới Trung Hoa đã
nảy mầm ngay
trên đất Tung
Sơn.
Thời Tam Quốc,
cũng trên đất
Tung Sơn xuất
hiện vị tăng nhân
người Hán đầu
tiên trong lịch sử,
đó là Chu Sĩ Hạnh,
người đầu tiên
sang Tây Phương
cầu pháp, mang
về bản kinh Bát
nhã bằng tiếng
Phạn. Sách xưa
chép rằng, khi ông
mất, đệ tử đem
hỏa táng, đến lúc
lửa cháy tàn mà
thân xác vẫn như
còn nguyên; đến
khi niệm chú thì
xương cốt mới
tan ra.
Năm Khai Hoàng
thứ 20 đời Tùy
Văn Đế, cao tăng
Huyền Trang ra
đời ở thôn Trần
Hà dưới chân núi
Tung Sơn. Bấy giờ
các tông phái Phật
giáo ở Trung Quốc
đua nhau nổi lên,
Huyền Trang nhận
thấy kinh điển các
phái khác nhau,
tranh luận không
dứt, mà xét cho
cùng là do không
có kinh điển gốc
để tra cứu, bèn
vượt gian khổ
sang Thiên Trúc
thỉnh kinh, mang
về dịch trong 19
năm, tất cả 1331
quyển.
Truyền thuyết
Đạt Ma
Theo ghi chép
trong cổ tịch,
Thiếu Lâm là một
trong những ngôi
chùa cổ xưa nhất
của Trung Quốc,
được Hiếu Văn đế
triều Bắc Ngụy cho
xây dựng năm
Thái Hòa thứ 19
(495) làm nơi tu
hành và thuyết
giảng cho nhà sư
Bạt Đà, vị thần
tăng người Ấn Ðộ
đầu tiên đến
Trung Hoa truyền
bá Phật pháp. Tuy
nhiên, kungfu
Thiếu Lâm lại gắn
với tên tuổi của
Đạt Ma sư tổ, tức
Bồ Đề Đạt Ma,
người được cho là
tổ khai sơn của
Thiền tông Trung
Hoa.
Theo truyền
thuyết, Bồ Đề Đạt
Ma là con trai thứ
ba của vua Nam
Thiên Trúc, vượt
biển sang Trung
Hoa truyền pháp.
Lương Vũ Đế
chuộng đạo, mời
Đạt Ma đến hội
kiến, nhưng
không cùng chí
hướng; Đạt Ma
bứt một cọng lau
ném xuống sông,
rồi đứng trên đó
mà vượt Trường
Giang vân du lên
miền Giang Bắc.
Năm Hiếu Xương
thứ ba, đời Bắc
Ngụy (527), Bồ Đề
Đạt Ma đến Thiếu
Lâm. Có nhà sư ở
Tung Sơn tên là
Thần Quang nghe
danh đến xin bái
yết. Đạt Ma vẫn
quay mặt vào bức
tường, không nói
năng gì. Thần
Quang không nản,
nhủ rằng: “Người
xưa cầu đạo, đều
phải trải qua gian
nan thử thách,
chịu những điều
người thường
không chịu được”.
giữa đêm tháng
chạp tuyết lớn
đầy trời, Thần
Quang đứng chờ
bất động bên
ngoài chùa, sáng
ra tuyết ngập đến
đầu gối. Đạt Ma
lúc ấy mới hỏi:
“Ngươi đứng mãi
trong tuyết để
chờ gì vậy?” Thần
Quang khóc mà
nói: “Chỉ mong
được đại sư
truyền đạo”. Biết
Đạt Ma còn e mình
chỉ nhất thời kích
động, không thể
lâu dài, Thần
Quang liền rút đao
tự chặt đứt cánh
tay trái, đặt trước
mặt thầy. Đạt Ma
bấy giờ mới nhận
làm đệ tử, đổi
pháp danh là Huệ
Khả. Trong chùa
Thiếu Lâm hiện
nay còn Lập tuyết
đình, xây dựng
dưới thời Đường,
nhằm ghi lại sự
tích Huệ Khả chặt
tay cầu đạo.
Tương truyền,
trong thời gian ở
Thiếu Lâm, thấy
nhiều nhà sư thể
trạng yếu đuối,
không chịu nổi khí
lạnh của núi rừng
và thường hay
ngủ gật trong lúc
nghe thuyết
giảng, Đạt Ma bắt
đầu nghĩ cách tu
rèn thân thể và
khắc chế ngoại
cảnh cho người
học đạo. Kết quả
sau 9 năm diện
bích tham thiền
(ngồi thiền quay
mặt vào tường)
trong động Trấn
Vũ trên núi Thiếu
Thất, ngài đã tìm
ra tinh yếu và đúc
kết vào trong hai
cuốn Dịch cân kinh
rèn luyện nội công
và Tẩy tủy kinh
rèn luyện khí
công.
Có thuyết còn nói
rằng, hai bộ Cửu
dương chân kinh
và Cửu âm chân
kinh cũng do Đạt
Ma sáng tạo ra.
Trong khi đó, một
số nghiên cứu lại
nhận định, ngài đã
kết hợp các bài
tập luyện thở
Yoga và một số
môn võ tay không
của Ấn Độ để tạo
nên các bài tập
rèn luyện tăng
cường sức khỏe
phục vụ cho việc
tu hành.
Theo truyền
thuyết đạo Phật,
sơ tổ Thiền tông
Bồ Đề Đạt Ma
trong thời gian ở
Trung Quốc đã
dùng 4 quyển
Lăng già kinh để
dạy đệ tử, sau
truyền lại cho Huệ
Khả, từ đây, Thiền
Tông Trung Quốc
có thế hệ truyền
pháp đầu tiên.
Sau khi Bồ Đề Đạt
Ma viên tịch (536),
các Đại sư Thiếu
Lâm tiếp tục tập
luyện những
phương thức ngài
truyền lại. Thiếu
Lâm phái qua
nhiều đời đã
được các sư tăng
xiển dương, đúc
kết và phát triển
mạnh mẽ và dần
trở thành Bắc đẩu
của các võ phái
Trung Hoa. Việc hệ
thống hóa võ
thuật Thiếu Lâm
được cho là bắt
đầu từ những võ
quan về hưu tu
hành tại chùa.
Năm Kiến Đức thứ
3 đời Bắc Chu, Vũ
Đế cấm Phật, chùa
bị phá. Những năm
Đại Tượng được
xây dựng lại, đổi
tên thành chùa
Bộ Cô, mời 120
người gồm Huệ
Viễn, Hồng Tuần…
đến tu hành, gọi
là “Bồ tát tăng”.
Đời Tùy Phật giáo
hưng thịnh, sắc
cho lấy lại tên
Thiếu Lâm Tự, ban
cấp đất đai, thành
ngôi chùa lớn bậc
nhất ở phương
Bắc.
13 võ tăng đời
Đường
Đến đời Đường
(618 - 907), Lục tổ
Huệ Năng đề ra
chủ trương đốn
ngộ, cho rằng việc
tu hành không cần
phải tách rời đời
sống thực, “gánh
nước chặt củi, đều
là diệu đạo”. Công
phu Thiếu Lâm bắt
nguồn chính từ
sinh hoạt thường
ngày của tăng
nhân. Tương
truyền, đệ tử Huệ
Quang khi mới 12
tuổi có thể đứng
trên miệng giếng
sâu đá cầu 500
quả, chứng tỏ
công phu không
phải hạng tầm
thường. Rất nhiều
chiêu thức của võ
công Thiếu Lâm
đều là sự phát
triển từ những
động tác thường
ngày như gánh
nước, quét sân,
bổ củi… Công phu
cao nhất thực ra
lại có nguồn gốc
hết sức bình dị.
Đầu đời Đường,
Thiếu Lâm đã có
một đội ngũ tăng
lữ dũng mãnh,
thiện chiến.
Khoảng năm Vũ
Đức, 13 tăng nhân
Thiếu Lâm Tự
tham gia trợ chiến
giải vây trong cuộc
chiến thảo phạt
Vương Thế Sung
của Tần vương Lý
Thế Dân, lập công
trạng lớn.
Lịch sử võ thuật
Trung Quốc còn
nhắc nhiều đến ba
vị có công lớn
nhất từ Thiếu Lâm
Tự là Chí Tháo,
Huệ Dương và
Đàm Tông. Sau khi
lên ngôi, Đường
Thái Tông Lý Thế
Dân phong cho
hòa thượng Đàm
Tông làm Đại
tướng quân, đồng
thời đặc chỉ cho
phép các hòa
thượng Thiếu
Lâm được luyện
đội ngũ tăng binh,
lại cho phép đại
khai sát giới. Các
triều đại sau này
vẫn theo lệ đó.
Hiện nay trong
chùa còn tấm bia
Đường Thái Tông
tứ Thiếu Lâm Tự
chủ giáo ghi lại giai
đoạn lịch sử này.
Đây chính là sự
kiện lịch sử được
dùng làm bối cảnh
cho bộ phim Thiếu
Lâm Tự bản 1982
do Lý Liên Kiệt thủ
vai chính Giác
Viễn, học trò của
Đàm Tông.
Cao Tông và Võ
Tắc Thiên cũng
thường đến viếng
chùa, phong
thưởng rất hậu.
Được sự ủng hộ
to lớn của triều
đình, Thiếu Lâm
nhanh chóng phát
triển thành Đại
phật tự danh trấn
thiên hạ. Sau này
các vị võ quan của
triều đại nhà
Đường khi về hưu
cũng thường đến
chùa Thiếu Lâm
để trao đổi võ
thuật, tạo nên
một không khí
giao lưu võ học
trở thành truyền
thống của nhà
chùa cho đến các
đời sau.
Nhưng cho đến lúc
này các bộ môn
quyền thuật của
Thiếu Lâm vẫn
chưa được coi
trọng và phát
triển đúng tầm cỡ,
vì lúc đó các
phương pháp sử
dụng binh khí vẫn
còn thịnh hành, và
vũ khí phòng thân
của các vị tăng
nhân trong chùa
chíh là cây côn,
mà chủ yếu là
trường côn. Chùa
Thiếu Lâm lúc đó
vẫn còn giữ
nghiêm giới luật,
cấm các tăng nhân
sử dụng vũ khí
bằng kim loại sắc
nhọn có thể gây
sát thương. Chính
vì vậy, dễ lí giải vì
sao côn pháp
Thiếu Lâm lại tiến
rất nhanh đến
trình độ điêu
luyện và tinh diệu.
Các loại binh khí
khác (thập bát
ban binh khí võ
nghệ) chỉ được
phát triển ở các
dòng Nam quyền
và Bắc quyền
Thiếu Lâm sau
này mà thôi.
Khoảng năm Hội
Xương, Vũ Tông
cấm Phật, chùa bị
phá đến phân
nửa, suy dần
trong những năm
cuối đời Đường
và được khôi phục
dưới đời Tống.
Tống Thái Tổ và
truyền thuyết
Hồng quyền
Lịch sử chép rằng,
Tống Thái Tổ
Triệu Khuông Dẫn
lúc thiếu thời đã
từng lên Thiếu
Lâm học tập võ
thuật, và trở
thành một quyền
sư dạy võ thuật
trong chùa Thiếu
Lâm, sáng tạo ra
Tam thập lục thế
trường quyền (36
thế đánh của
Thiếu Lâm
Trường Quyền)
mà sau này gọi là
bài Thiếu Lâm
Thái Tổ Trường
Quyền.
Sử liệu thời nhà
Tống cũng ghi
nhận Triệu
Khuông Dẫn
thường sử dụng
côn pháp khi lâm
trận, nghệ thuật
côn pháp của ông
điêu luyện và hiệu
quả không kém
các đại tướng của
ông với các loại
binh khí khác.
Tuy nhiên có một
truyền thuyết lưu
truyền trong dân
gian mà Thiếu
Lâm Tự cũng công
nhận: bài Thái Tổ
Trường Quyền
không phải do
Triệu Khuông Dẫn
tự soạn ra, mà do
ông nằm mơ được
tiên nhân dạy cho
36 động tác căn
bản của Hồng
Quyền, rồi tỉnh
dậy theo đó soạn
lại. Tuy nhiên,
những yếu tố
nhuốm màu
truyền thuyết
này không ngăn
cản Hồng quyền
trở thành cơ sở
để hình dung diện
mạo võ công
Thiếu Lâm đời
Tống.
Thời kì này, võ
công Thiếu Lâm lại
tiếp tục được
nâng cao, tăng
nhân trong chùa
có đến hơn 2000
người. Các nhà sư
bắt đầu tổng hợp
những phương
pháp chiến đấu cá
nhân bằng tay
không, một thể
thức đang được
lưu truyền trong
dân gian lúc đó. Có
thể kể ra một số
bài quyền ra đời
trong thời kỳ này
là Tiểu Hồng
Quyền, Đại Hồng
Quyền, Thông Tý
Quyền, Ngũ Hợp
Quyền và Khán
Gia Quyền của hòa
thượng Phúc Cư.
Thiếu Lâm đại hội
và 72 tuyệt kĩ
Năm Hoàng Khánh
thứ nhất (1312),
Nguyên Thế Tổ
Hốt Tất Liệt mệnh
cho hòa thượng
Phúc Dụ trụ trì
chùa Thiếu Lâm,
phong cho làm
Tấn Quốc Công,
thống lĩnh các
chùa quán ở Tung
Sơn. Từ đó các
cao tăng trong
ngoài Trung
nguyên tụ hội về
đây, thi triển võ
công, đàm đạo
Phật pháp, tăng
chúng thường
trên dưới 2000
người.
Tỉ thí võ nghệ
(Bích họa trên
tường Thiếu Lâm
tự)
Tuy nhiên, sự súc
tích của các pho
sách tổ sư để lại
đã khiến tăng
chúng không đạt
được sự thống
nhất trong cách
hiểu, từ đó nảy
sinh nhiều võ công
mới lạ, có lúc rời
xa những nguyên
lý căn bản. Từ cuối
đời Tống, Thiếu
Lâm phái nổi lên
phong trào sáng
tạo mạnh mẽ chưa
từng thấy, người
người, nhà nhà
đều tự nhận mình
là môn đồ Thiếu
Lâm chính tông.
Hiện tượng này
chắc chắn không
đưa võ công
Thiếu Lâm đến
đỉnh thịnh, mà dẫn
đến tạp nhiễm và
suy thoái. Đó
không phải điều
các trưởng tràng
Thiếu Lâm trông
đợi.
Mùa thu năm
1333, vào đời vua
Huệ Tông nhà
Nguyên, để chỉnh
lý nội bộ Thiếu
Lâm phái đã phát
triển vượt ngoài
tầm kiểm soát, Đại
hội võ thuật Thiếu
Lâm được mở tại
Tàng Kinh Các. Đại
hội triệu tập 700
trưởng tràng các
chi nhánh, các tân
môn, cựu môn, các
quan nhân
nguyên là môn đồ
Thiếu Lâm ra xuất
chánh, chủ trì đại
hội là thiền sư
phương trượng
đời thứ 12
Nguyên Hạnh và 4
vị trưởng lão tiền
bối trước đó đã
ẩn cư trên 20 năm
trong núi sâu.
Nguyên Nhiên,
bấy giờ là một
môn đồ sơ đẳng
của Thiếu Lâm,
đưa ra ý kiến khởi
đầu các môn đồ
phải tập những võ
công căn bản, sau
đó tùy sở trường
của từng người
thì luyện tập các
môn mình thấy
phù hợp. Ý kiến
được các sư
trưởng và toàn
thể Đại hội nhất
trí thông qua.
Sau khi tổng kết,
xem xét hàng
ngàn phương
pháp, cách thức,
bí quyết tu luyện
võ công, gồm
khinh công, thủy
công, nhuyễn
công, ngạnh công,
nội công, ngoại
công… được các
trường tràng, các
chi nhánh và các
cao thủ phát triển
trên nền tảng võ
học Thiếu Lâm
phái, Đại hội đã
tiến hành sắp
xếp, phân loại, và
tổng hợp thành
Thiếu Lâm thất
thập nhị huyền
công - 72 tuyệt kỹ
võ học Thiếu Lâm
Tự, bao quát toàn
diện những hệ
thống võ công từ
nguyên khởi đến
cả những thời
điểm hoàng kim
nhất của võ phái,
và dù sau này có
một thiên tài võ
học tìm thêm
được các công
phu nào đó và
tuyên bố rằng đó
là một hệ thống
chưa từng có, thì
cũng vẫn có thể
xếp vào một
trong 72 môn loại
đã được Đại hội
ấn định.
Cuối đời Nguyên,
thiên hạ đại loạn,
quân Khăn đỏ kéo
đến Thiếu Lâm,
tăng chúng tản đi
khắp nơi. Như mỗi
lần Trung nguyên
rơi vào vòng binh
hỏa, kungfu Thiếu
Lâm lại có dịp xuất
thế lập công, và
đó cũng là tiền đề
cho thời kì cực
thịnh của võ công
Thiếu Lâm dưới
đời Minh.